Có vẻ như màn múa dao trong chính đường khi nãy của Mai Nhân khá là có sức đe dọa, hoặc cũng có thể là hôm nay xảy ra quá nhiều chuyện, tâm trí bị tiêu hao đến cạn kiệt, không tìm được chút gì ăn sợ là chết đói mất, nên Thẩm Liệm đành cam chịu số phận, bò dậy khỏi giường, ra ngoài đòi đồ ăn.
Dù gì cũng là ân nhân cứu mạng của Đại đương gia, lần này đãi ngộ với hai người họ đúng là một bước lên tiên, bữa tối lập tức được nâng cấp thành ba món xào một món canh, có chay có mặn, còn có cả cơm trắng ngon lành.
Thẩm Liệm ăn ngấu nghiến như hổ đói, chỉ còn thiếu nước liếm sạch đĩa.
"No quá đi ~" Nàng đặt bát xuống, chẳng màng hình tượng mà ợ một cái rõ to.
Mai Nhân nghe mà ngán ngẩm, miếng cơm cuối cùng cũng bỏ lại, ăn không nổi.
"...Trước khi học chữ, ngươi đi cuốc đất thuê à?"
"Không có đâu, việc ở nghĩa trang còn làm không hết, đào đâu ra thời gian mà đi cuốc đất." Thẩm Liệm nghiêm túc trả lời.
Mai Nhân: "......"
Thấy Mai Nhân đã buông bát đũa, trông hẳn là ăn xong rồi, Thẩm Liệm hí hửng:
"Ngươi không ăn nữa à? Trong bát còn thừa nè, đừng để phí. Cho ta đi, ta ăn hộ cho."
Vừa nói xong đã cầm lấy bát cơm của Mai Nhân, vét sạch một hạt cũng không chừa.
Mai Nhân mặt mày đen thui, nhưng cuối cùng cũng chẳng nói gì.
Cơm nước xong xuôi, A Quế tẩu đặc biệt qua nói lời cảm tạ bọn họ, nhất là với Thẩm Liệm:
"......Hôm nay nếu không có ngươi, e là Đại cô nương nhà chúng ta đã một xác toi hai mạng rồi. Đại ân của cô nương, cả sơn trại chúng ta đều ghi nhớ. Đợi Đại cô nương tỉnh lại, nhất định sẽ đích thân tạ ơn cô nương!"
Thẩm Liệm xua tay lia lịa, vội đáp không cần phải vậy đâu, rồi hỏi thăm tình hình đứa trẻ.
Lúc chiều tình thế cấp bách quá mới phải làm thế, lực kéo lớn như vậy, chỉ sợ đứa nhỏ không chịu nổi.
"Đại phu đã kiểm tra rồi, bảo là tay đứa bé hơi trật khớp, nhưng vấn đề nhỏ thôi. Trẻ con mà, xương mềm, lớn lên là khỏe ngay." A Quế tẩu đáp.
Thẩm Liệm nghe vậy mới yên lòng.
A Quế tẩu không rõ chuyện này Mai Nhân giúp bao nhiêu phần, nhưng lúc bà về, trông tay Mai Nhân đã dính đầy máu cũng biết người này cũng bỏ ra không ít công sức:
"Nhị thiếu phu nhân... À không, Mai cô nương, cũng đa tạ cô nương đã cứu mạng Đại cô nương của chúng ta......"
Nói xong còn định cúi người lạy tạ.
Mai Nhân vội đưa tay đỡ lấy bà, giọng mang đôi phần thành khẩn:
"Đừng vậy A Quế tẩu, ta với Khánh lang duyên mỏng, kiếp này chẳng có số làm phu thê, lòng ta tiếc nuối khôn kể. Nay có thể bỏ chút sức lực, giúp người nhà của chàng, với ta mà nói, cũng coi như được thành toàn rồi."
Lời này nói ra, vừa đẹp vừa thấm, A Quế tẩu nghe mà mắt đỏ hoe, không ngớt lẩm bẩm mấy lời gì mà "Nhị oa tử không có phúc phần", hoàn toàn chẳng nhớ chuyện mấy canh giờ trước bọn họ còn nghi ngờ Mai Nhân và Thẩm Liệm hợp mưu giết Vinh Khánh.
Thẩm Liệm đứng một bên, mặt mũi nhăn nhó, muốn cười mà không thể cười, nhịn mà khổ sở vô cùng.
Người khác không biết, chứ nàng còn không rõ hay sao? Sau khi Vinh Khánh chết, Mai Nhân nói chuyện có cảm xúc hơn trước nhiều, giờ trong bụng chắc đang cười tươi như hoa nở rồi mà ngoài mặt còn phải làm ra vẻ đau lòng muốn chết.
Đúng là làm khó nàng ấy quá.
Có lẽ là nhìn thấu được suy nghĩ của Thẩm Liệm, Mai Nhân phóng ngay cho nàng một ánh mắt. Thẩm Liệm lập tức diễn sâu, trên mặt cũng treo nỗi tiếc thương chân thành, đồng cảm sâu sắc an ủi A Quế tẩu, rằng cái chết của Vinh Khánh là do trời xanh ghen anh tài.
Nói đến đoạn cao hứng, Thẩm Liệm còn ngâm một đoạn cổ văn trên bia mộ, A Quế tẩu nghe không hiểu, nhưng cảm động là thật.
Khó khăn lắm mới tiễn được A Quế tẩu đi, Thẩm Liệm tranh thủ lúc Mai Nhân đang uống nước, buông lời hỏi, giọng nửa đùa nửa thật:
"Làm quả phụ vọng môn[1] cảm giác thế nào?"
[1] Quả phụ vọng môn: Quả phụ chưa cưới.
Mai Nhân lườm nàng một cái:
"Làm nhiều thành quen, ta đã làm tới hai lần rồi."
Nghe như thể còn rút ra được kinh nghiệm vậy.
Thẩm Liệm nói:
"Vậy giờ Nhị đương gia chết rồi, chúng ta lại cứu được hai cái mạng của Đại đương gia, nàng ấy tỉnh lại không biết có cho ta xuống núi không nhỉ?"
"Khó nói." Mai Nhân đáp. "Chết của Vinh Khánh còn chưa tra rõ kia kìa."
"Thật ra ta tra được rồi." Thẩm Liệm ngó quanh một lượt, xác định không có ai mới hạ giọng thì thầm với Mai Nhân. "Lúc khám nghiệm, ngươi nhớ giữa chừng ta đã tắm rửa thi thể không? Khi rửa tới phần đầu, ta phát hiện đỉnh đầu của Vinh Khánh có hơi kỳ lạ, chỗ huyệt Bách Hội hơi gồ lên một chút, hẳn là trước khi chết bị người ta đâm dị vật vào trong. Sau khi chết bị khiêng qua lại, thêm việc ta sờ nắn xương cốt kiểm tra, nên cũng lộ ra ít nhiều."
Sợ Mai Nhân không hiểu, nàng còn giải thích thêm:
"Huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu là huyệt rất yếu, quanh nó là bốn huyệt, gọi là Tứ Thần Thông, thuộc nhóm kỳ huyệt ngoài kinh mạch, chuyên để an thần định chí, thường thì dùng để trấn tĩnh, an thần, khai thông đầu óc, cũng có thể chữa mất ngủ, hay quên, động kinh, đau đầu, chóng mặt các thứ."
"Mà Tứ Thần Thông của Vinh Khánh có dấu vết từng được trị liệu, hơn nữa còn được trị thường xuyên."
Mai Nhân vẫn không hiểu rốt cuộc Thẩm Liệm định nói gì:
"Thì liên quan gì đến cái chết của hắn?"
"Đương nhiên là liên quan chứ, A Quế tẩu chẳng bảo Vinh Khánh què chân à? Lúc nghiệm thi ta phát hiện chân hắn què do chứng động kinh, là bệnh từ nhỏ. Động kinh còn được gọi là 'bệnh lợn nái', ý là phụ nhân khi mang thai ăn phải thịt lợn nái mới sinh ra con bị vậy. Loại bệnh này mang từ trong bụng mẹ rồi, không trị khỏi được."
"Nhưng chắc bọn họ không hiểu y học, vẫn cứ muốn chữa." Thẩm Liệm nói tiếp. "Cũng dễ hiểu thôi, mặt mũi tuấn tú như thế mà què chân, đổi lại người khác thì cũng vậy thôi, sao mà cam lòng nổi."
Mai Nhân nghe vậy mới nhớ, hồi gặp Vinh Khánh, người hắn lúc nào cũng phảng phất mùi thuốc.
A Quế tẩu còn bảo Vinh Khánh mặt mỏng, ngồi gần quá dễ ngại, nên nàng cũng ngồi xa ra chút, lúc ấy cũng chẳng nghĩ nhiều.
Nay nhớ lại, ngồi gần dễ ngại gì chứ, rõ là sợ nàng ngửi thấy mùi thuốc trên người hắn.
Chẳng trách, với diện mạo của Vinh Khánh, dù què cũng nên yên bề gia thất rồi mới phải, vậy mà hai mươi mấy rồi chưa cưới, quả nhiên là có tật kín.
"......Tóm lại, hắn nhất định là hay phát bệnh, mà bệnh này trị thì phải kích thích Tứ Thần Thông. Ta đoán trước khi chết hẳn là có lý do khiến hắn lại kích thích Tứ Thần Thông, rồi hắn hôn mê, sau đó bị người ta dùng châm hay gì đó đâm thẳng vào huyệt Bách Hội."
Mai Nhân lần này thì hiểu rồi, ngẫm nghĩ một lúc, nàng hỏi:
"Ý ngươi là đại phu chữa bệnh cho hắn giết hắn?"
"Cái đó thì ta không rõ, nhưng chắc không phải đại phu đâu."
"Vì sao?"
"Loại bệnh này mãn tính, cách trị liệu cũng chỉ có một. Người bệnh thường tự biết điểm huyệt, thậm chí người thân bên cạnh cũng biết, chứ lần nào phát bệnh cũng mời đại phu thì bao tiền cho đủ. Bệnh lại mời, bệnh lại mời, cả sơn trại to cỡ này chắc cũng gánh không nổi ấy chứ?" Thẩm Liệm nói.
Nghe quả thực có lý.
Mai Nhân lại hỏi: "Vậy sao lúc ấy ngươi không nói với Đại đương gia?"
"Lúc ấy ta đâu có chứng cứ gì hẳn hoi." Giọng Thẩm Liệm có phần yếu thế. "Mấy cái này đều là ta đoán thôi, ta tiếp xúc nhiều với xác chết, quen sờ xác đoán nguyên nhân nên mới dám nghĩ thế, lúc ấy tình hình vậy ta nào dám nói bừa, định đợi xoa xong bã rượu với giấm để làm nóng thi thể, vết thương lộ rõ mới nói với Đại đương gia ấy chứ."
"Nói cách khác, hung khí vẫn còn bên trong huyệt Bách hội?"
"Hẳn là vậy."
Mai Nhân nghe vậy thì không nói gì nữa, dường như đang suy tính điều gì.
Thẩm Liệm cũng không làm phiền, tự tìm một góc tường ngồi xuống, lôi sách ra ôn bài.
Tháng tám này nàng còn phải đi thi Hương nữa
[Hết chương 11]