Lôi Nguyệt Nhược đang đọc sách trong Vô Sự Trai, lúc nàng cùng Khương Thanh Tố đang thưởng trà thì nha hoàn hớt hải chạy tới. Vừa thấy tiểu thư vẫn bình an, nha hoàn mới thở phào nhẹ nhõm.
Những ngày trước, Lôi Nguyệt Nhược ở nhà sống chết không màng, trên dưới Lôi phủ đều dặn nàng phải chăm sóc kỹ càng, nếu để xảy ra chuyện gì, nha hoàn ấy cũng khó toàn mạng.
Khương Thanh Tố liếc mắt thấy nha hoàn rõ ràng đã yên tâm, trong lòng cũng hơi áy náy vì mình đã dối trá lừa người, nên không đùa giỡn nữa mà đợi uống xong bình trà rồi dẫn Lôi Nguyệt Nhược đi chùa.
Vân Tiên thành rất rộng, từ nam đến bắc ít nhất mất hai canh giờ, nếu đi xe ngựa thì nhanh hơn. Nhưng Lôi phủ cách Vô Sự Trai chỉ khoảng nửa canh giờ đường, vì vậy Lôi Nguyệt Nhược ngồi kiệu đến, nếu lại ngồi kiệu tới chùa thì e rằng thời gian sẽ kéo dài thêm nữa.
Trên đường, Khương Thanh Tố vừa dò hỏi Lôi Nguyệt Nhược về chuyện của Giang Nhu, vừa thuận miệng bịa ra vài câu chuyện. Dù sao nàng cũng là quỷ sai từng sống hơn năm mươi năm trong Âm ty, đối với một tiểu thư khuê các cả đời chưa bước ra khỏi cửa, đúng là khác biệt một trời một vực. Lời dối trá của Khương Thanh Tố kể ra, đến cả Thẩm Trường Thích tinh quái cũng chưa chắc nhận ra thật giả.
Ngôi chùa trong Vân Tiên thành có tiếng tăm ở cả vùng Chiết Châu, được xây dựng hơn trăm năm trước. Ban đầu là một vị đại sư từ chùa Đà Hoa ở kinh thành đến truyền đạo, lâu dần thì an cư lập nghiệp tại đây, bởi vậy chùa trong Vân Tiên thành này còn có tên gọi là Tiểu Đà Hoa Tự.
Chùa hương khói nghi ngút, tín đồ đến lễ Phật không dứt, ngay cả lúc trời tối, con đường trước cổng vẫn đông vui tấp nập.
Khi Khương Thanh Tố và Lôi Nguyệt Nhược tới nơi, sắc trời đã dần tối, mặt trời đang lặn. Ngoài nha hoàn, Lôi gia còn cử theo hai gia đinh, bởi người đông đúc nên kiệu phu đợi cách một con phố.
“Bạch phu nhân, ngài đã từng gặp được cao nhân, chắc hẳn có duyên với thần Phật. Theo cao kiến của ngài, lần này ta đến chùa cầu Phật khai giải tâm kết, là nên gặp, hay không nên gặp?” – giọng Lôi Nguyệt Nhược nhẹ như gió thoảng, không để người đi phía sau nghe thấy.
…
…
Khương Thanh Tố quay sang nhìn nàng. Nàng vốn cho rằng Lôi Nguyệt Nhược vì tình thâm nghĩa nặng, nguyện tuyệt thực chết theo, nên lần này tới đây chắc chắn là để gặp Tô Cừu một lần cuối. Không ngờ Lôi Nguyệt Nhược lại hỏi như vậy, dường như lại có chút không muốn gặp mặt.
“Lôi tiểu thư không muốn gặp hắn sao?” Khương Thanh Tố hỏi.
Lôi Nguyệt Nhược mím môi: “Ta vốn muốn chết, chàng lại không muốn ta chết, hẳn là mong ta sống tốt. Ta thuận theo ý chàng mà sống, từ nay âm dương cách biệt, có gặp cũng chẳng cầu được. Nếu ta trái ý chàng, cứ một lòng đòi chết, thì có thể gặp được, nhưng ta vì chàng mà coi rẻ mạng sống, liệu chàng có xem trọng, hay trách ta không nghe theo ý chàng?”
Khương Thanh Tố sững người – đây là lần đầu tiên nàng gặp một người như vậy. Không thể sống, cũng chẳng thể chết, tự nhốt mình trong nhà tù tình cảm mà không cho bản thân lối thoát.
“Theo ta thấy, con người sống trên đời không thể rời khỏi tình ái, nhưng cuộc đời cũng không chỉ có mỗi tình ái.” Khương Thanh Tố nhẹ giọng: “Gặp được thì cứ gặp, không gặp được, chẳng bằng thuận theo ý hắn, quên đi nỗi lòng, bắt đầu lại cuộc sống.”
“Phu nhân làm được sao?” Lôi Nguyệt Nhược hỏi.
Khương Thanh Tố mỉm cười: “Ta đã làm được rồi.”
Chỉ là trong một đoạn tình cảm vốn dĩ không có kết quả, nàng là người đã chết vì “cầu bất đắc” mà thôi.
Khương Thanh Tố vốn là quỷ, không bái thần Phật, lần này đến chùa chủ yếu là để đi cùng Lôi Nguyệt Nhược, liền đứng đợi trước cửa chùa.
Lôi Nguyệt Nhược vào trong, trước tượng Phật chỉ có ba chiếc bồ đoàn, phải xếp hàng mới được quỳ lạy. Trong tay nàng nắm chặt lá thư do Tô Cừu để lại. Đến lượt mình, nàng trịnh trọng quỳ xuống trước Phật, thành tâm cầu hỏi, rồi dập đầu ba cái.
Khi nàng đang dập đầu, bồ đoàn bên trái cũng có một nam nhân đang quỳ. Lôi Nguyệt Nhược quỳ lạy xong định đứng dậy, nhưng vì những ngày qua không ăn uống gì, chân tay mềm nhũn, liền đứng không vững. Nha hoàn đứng cách xa nên không kịp đỡ, lại là vị công tử áo trắng bên cạnh đưa tay ra đỡ nàng.
Lôi Nguyệt Nhược nhìn đối phương, đôi mắt sáng như sao ở ngay trước mắt, nàng lập tức rút tay lại, hành lễ nói: “Đa tạ công tử.”
Tay Giang Nhu đang lơ lửng giữa không trung hơi khựng lại, một lúc lâu chưa rút về. Đến khi thấy Lôi Nguyệt Nhược quay đi, hắn mới sực tỉnh, vội vã nói theo: “Không… không có gì.”
Lôi Nguyệt Nhược nghe thấy, quay đầu nhìn hắn một lần nữa, khẽ mỉm cười đáp lễ rồi rời khỏi chính điện cùng nha hoàn.
Giang Nhu chậm rãi thu tay lại, cúi đầu nhìn xuống thì thấy có một tờ giấy rơi trên đất. Hắn nhặt lên, nghĩ hẳn là cô nương kia đánh rơi, liền muốn đưa lại, nhưng vừa ra khỏi chính điện thì đã không thấy bóng dáng người đâu nữa.
Hai binh lính đứng gác ngoài điện thấy Giang Nhu đi ra, lập tức hành lễ: “Đại nhân.”
“Vị cô nương mặc áo lam vừa nãy có nha hoàn đi cùng, các ngươi nhận ra không?” Giang Nhu hỏi.
Hai người kia nhìn nhau, rồi đáp: “Đó là thiên kim tiểu thư của Lôi phủ trong thành – Lôi Nguyệt Nhược. Đại nhân hỏi nàng…”
“Không có gì.” Giang Nhu lắc đầu, liếc nhìn tờ thư đã được gấp gọn trong tay, nhét vào tay áo, định ngày mai sẽ đem trả lại.
Lôi Nguyệt Nhược rời khỏi chính điện không thấy Khương Thanh Tố, đi cùng nha hoàn một đoạn mới thấy nàng đang đứng ở quầy bán mạch nha đợi mua kẹo, liền tiến lại: “Bạch phu nhân.”
Khương Thanh Tố quay lại nhìn nàng, “ồ” một tiếng: “Ổn rồi chứ?”
“Ổn rồi.” Lôi Nguyệt Nhược gật đầu.
Khương Thanh Tố nhận lấy một gói mạch nha, hỏi nàng: “Đã cầu hỏi chưa?”
Lôi Nguyệt Nhược nói: “Cầu rồi, nhưng… ta vẫn không biết phải làm thế nào.”
Khương Thanh Tố cùng nàng sánh vai đi giữa con phố náo nhiệt, dần rời xa ngôi chùa: “Lôi tiểu thư là hỏi Phật Tổ có nên gặp Tô Cừu, hay là hỏi có nên quên Tô Cừu?”
Lôi Nguyệt Nhược sững người, thành thật đáp: “Gặp là chết, quên là sống. Ta hỏi chính là: nên chết hay nên sống.”
Khương Thanh Tố mỉm cười: “Không bằng, cô thử xem lại bức thư kia xem.”
Lôi Nguyệt Nhược đưa tay sờ vào tay áo, lại phát hiện thư không còn, liền khựng lại, giật mình: “Mất rồi?”
Khương Thanh Tố nói: “Vậy thì đây chính là câu trả lời Phật Tổ ban cho cô.”
Lôi Nguyệt Nhược lòng tràn nghi hoặc, thấy Khương Thanh Tố tiếp tục bước đi, liền theo kịp hỏi: “Bạch phu nhân làm sao biết thư của ta mất? Chẳng lẽ ngài cũng có đại thần thông?”
Khương Thanh Tố cười nói: “Thật ra ta không biết thư cô mất, chỉ là cố ý hỏi vậy để xem phản ứng của cô thôi. Thần Phật ít can dự chuyện trần gian, ta đoán thư chắc chắn không có gì thay đổi, nói thế chỉ để cô tự soi mình.”
“Nếu thư Tô Cừu viết không đổi, mà cô lại thất vọng, tức là trong lòng cô muốn chết, không muốn sống theo lời thư. Còn nếu cô vui mừng, thì tức là muốn sống, chấp nhận buông bỏ quá khứ.” Khương Thanh Tố vừa nói, vừa ăn một viên mạch nha.
Lôi Nguyệt Nhược giật mình: “Thì ra đây mới là dụng ý thật sự của Bạch phu nhân khi dẫn ta tới chùa. Ngài quả là người đại trí. Nhưng giờ thư không còn, ta phải tìm câu trả lời nơi đâu?”
Khương Thanh Tố thấy mạch nha cũng không tệ, liền đưa gói kẹo cho Lôi Nguyệt Nhược. Thấy nàng nhận lấy ăn một viên, nàng nói: “Vừa rồi thư bị mất, cô cũng không quay lại tìm, điều đó đã cho thấy cô đã sẵn sàng buông bỏ quá khứ. Có lẽ mối lương duyên của Lôi cô nương vẫn còn đang ở phía trước. Người đã mất thì cũng đã mất, hắn cũng mong cô sống tốt, chi bằng hãy tự tại mà sống.”
Tâm tình Lôi Nguyệt Nhược vốn day dứt suốt bao ngày qua, nhưng chỉ một chuyến đi chùa cùng Khương Thanh Tố đã giúp nàng khai thông. Những điều mà nàng mãi không hiểu, hóa ra đã có đáp án trong tiềm thức, chỉ là bản thân không nhận ra. Một lời gợi mở của Khương Thanh Tố, liền bừng tỉnh.
Khương Thanh Tố đã trở lại Vô Sự Trai, tạm biệt Lôi Nguyệt Nhược. Trước khi lên kiệu, nàng nói: “Ngày mai ta sẽ quay lại đọc sách.”
Khương Thanh Tố cười: “Vậy thì Vô Sự Trai xin dành cho Lôi cô nương đãi ngộ quý nhân – nước trà miễn phí.”
Lôi Nguyệt Nhược mỉm cười với nàng, lên kiệu rời đi. Tâm kết đã cởi, nha hoàn cũng vui mừng, ánh mắt nhìn Khương Thanh Tố cũng hòa nhã hơn nhiều, thầm nghĩ nữ chủ nhân của Vô Sự Trai đúng là người phi thường. Người nhà họ Lôi thấy tiểu thư đã chịu ăn uống, chịu cười, chắc hẳn cũng sẽ yên lòng.
Tiễn Lôi Nguyệt Nhược xong, Khương Thanh Tố cầm mạch nha đi tìm Đơn Tà. Trở lại trà lâu phía sau Vô Sự Trai, nàng thấy Chung Lưu và Thẩm Trường Thích đang đánh cờ. Chung Lưu tuy nhìn qua thô lỗ, nhưng vốn là con cháu nhà quyền quý, được nuôi dưỡng tử tế, cờ vẫn biết chơi. Chỉ là không địch lại Thẩm Trường Thích, người đã đánh cờ với Đơn Tà bao năm.
Thẩm Trường Thích đánh cờ với Chung Lưu mà vui ra mặt, chơi liền mấy ván. Thấy Khương Thanh Tố quay về, tay còn mang đồ ăn, hắn cười hỏi: “Bạch đại nhân mang gì ngon về thế?”
Khương Thanh Tố đáp: “Cái này là ta mua cho Đơn đại nhân.”
Đơn Tà – người nàng nhắc tới – lúc này đang ngồi thưởng trà, nhìn trời, cả ngày không nói cũng chẳng hề khó chịu.
Khương Thanh Tố đi ngang qua Thẩm Trường Thích, hỏi: “Đơn đại nhân nhìn gì thế?”
“Không rõ, dạo này ngài ấy hay ngẩn người.” Thẩm Trường Thích đáp.
Đơn Tà thu ánh mắt từ bầu trời đêm về, nhìn vào chén trà trước mặt. Hắn không nhìn Khương Thanh Tố, mà trực tiếp hỏi: “Nàng đưa nàng ấy đến chùa sao?”
Khương Thanh Tố gật đầu: “Sao chàng biết?”
Nàng ngồi xuống đối diện với hắn, Đơn Tà nói: “Trên người nàng có mùi nhang khói.”
Khương Thanh Tố đưa tay áo lên ngửi, Đơn Tà hơi nhướng mày: “Ngoài mùi hương, còn có sát khí.”
Khương Thanh Tố giật mình: “Ta không phát hiện có ai theo dõi, chẳng lẽ hắn ẩn thân quá xa?”
Đơn Tà “ừ” một tiếng: “Nhân gian không phải là nơi ta quản lý, nếu đối phương cố ý che giấu, cho dù là ta cũng chưa chắc lập tức tìm ra. Vân Tiên thành có hơn trăm hồn phách lẻ loi, lại gần núi gần nước, ẩm thấp dày đặc, quỷ hồn rất dễ ẩn mình. Khi nàng dẫn Lôi Nguyệt Nhược vào chùa, hắn không dám đến gần, nhưng khi các nàng rời đi thì đã tiếp cận.”
Ngón tay Đơn Tà khẽ chạm vào vai Khương Thanh Tố, một luồng hồng quang yếu ớt lóe lên rồi biến mất.
Khương Thanh Tố ngơ ngác: “Ta không hề nhận ra.”
“Nàng mới làm quỷ được bao lâu?” Đơn Tà lắc đầu.
Khương Thanh Tố nói: “Tô Cừu cũng vừa mới chết mà.”
“Tô Cừu không phải đại họa, kẻ đáng lo là người khác.” Đơn Tà đáp. “Nhưng lần này nàng hành động cũng khiến Tô Cừu cảnh giác, nghĩ rằng không lâu nữa, hắn sẽ xuất hiện trước mặt Lôi Nguyệt Nhược.”
“Ta thấy Giang Nhu ở chùa.” Khương Thanh Tố mím môi, nàng nhớ rõ trong Sổ sinh tử viết: Giang Nhu và Lôi Nguyệt Nhược gặp nhau lần đầu tại chùa, Giang Nhu nhất kiến chung tình, sau đó nhiều lần gặp gỡ, cuối cùng thành duyên tốt.
“Chính nàng cũng là một phần trong đó.” Đơn Tà nói: “Nếu không phải nàng đưa Lôi Nguyệt Nhược đến chùa, nàng ấy đã chẳng gặp Giang Nhu.”
“Lẽ nào ta vô tình xen vào chuyện nhân gian?” Khương Thanh Tố cắn môi: “Ta không cố ý, chỉ là muốn tìm cớ giúp nàng ấy từ bỏ ý định tự tử mà thôi.”
Chiếc quạt trong tay Đơn Tà nhẹ gõ lên đầu nàng – chẳng phải để trừng phạt, mà giống như đang an ủi. Trong mắt Khương Thanh Tố ánh lên chút áy náy: “Tính ta là vậy, cứ thích xen vào chuyện người khác. Chàng bảo ta đừng quản, ta lại cố tình không nghe, lần này lại vi phạm quy củ của Thập Phương điện rồi, Đơn đại nhân có trách ta không?”
“Ta suy nghĩ cả chiều nay rồi.” Đơn Tà khẽ nói. “Trước kia ta làm việc ở nhân gian, không tiếp xúc với người, chỉ âm thầm phân tích tình thế, trực tiếp đưa đi những linh hồn trái Sổ sinh tử, trừng phạt những kẻ cố ý nghịch mệnh. Cũng vì thế mà ta cùng Thập Phương điện đặt ra quy tắc – không được thay đổi chuyện nhân gian.”
Ánh mắt Đơn Tà dịu lại: “Nhưng hôm nay ta nhận ra, kể từ khi nàng vào Thập Phương điện, tiếp nhận vụ án của Mai Linh, chúng ta đã thay đổi số mệnh của rất nhiều người – đó là điều không thể tránh khỏi.”
Khương Thanh Tố hơi ngẩn ra: “Ý chàng là sao?”
“Lấy thân người, làm việc của người. Nếu nàng là Bạch phu nhân – Bạch phu nhân là người. Nếu nàng là Khương Thanh Tố – Khương Thanh Tố chính là quỷ.” Đơn Tà chậm rãi nói: “Có lẽ… Thập Phương điện không hoàn toàn thuộc về địa phủ, còn chúng ta… cũng chưa chắc không phải là người.”
Từ khi nàng lấy danh nghĩa Bạch phu nhân, giả gặp Mai Linh ở Hạ Trang, mọi hành động của nàng đã được ghi vào Sổ sinh tử của Hạ Trang rồi.