"Không sao, về nhà rồi."
Cuối cùng Trì Kính lại không thể cùng Dư Văn Gia đi xem phim.
Vì ba ngày sau đó, anh nhận được một nhiệm vụ khẩn cấp phải ra nước ngoài.
Lekitan những năm gần đây liên tục xảy ra nội chiến cục bộ, tình hình trong nước ngày càng căng thẳng. Hai ngày trước, thủ đô bùng nổ xung đột, các phần tử vũ trang tiến hành không kích, chính phủ lập tức ban bố lệnh phong tỏa toàn bộ không phận, cấm mọi chuyến bay dân sự hoạt động. Một số công dân Trung Quốc chưa kịp sơ tán hiện đang bị kẹt lại, và Trì Kính đã nhận lệnh đến Lekitan hỗ trợ nhân viên ngoại giao địa phương trong công tác sơ tán công dân.
Trước đây Trì Kính rất ít khi chủ động nói với Dư Văn Gia về công việc của mình, nhưng từ sau khi kết hôn, anh lại bắt đầu chia sẻ nhiều hơn. Vì mỗi lần anh đi công tác, Dư Văn Gia đều muốn biết rõ anh đi đâu, làm gì.
Lần này cũng vậy.
Chiến dịch sơ tán tất nhiên mang nhiều rủi ro không thể đoán trước. Dư Văn Gia biết lần công tác này của Trì Kính khác với những lần trước, nhưng dù lo lắng đến mấy cũng không để lộ ra. Chỉ trong ngày tiễn anh ra sân bay, cậu nhẹ nhàng nói: “Chờ anh về.”
Lekitan là quốc gia đầu tiên Trì Kính được phái đến. Sau khi hạ cánh, người đến đón anh là lão Chung, một đồng nghiệp cũ của anh, hiện là bí thư thứ nhất của đại sứ quán, thường trú tại đây.
Toàn bộ chuyến bay dân sự đều bị hủy, sân bay chật kín công dân Trung Quốc đang bị mắc kẹt không thể về nước.
Chuyến bay đặc biệt do chính phủ sắp xếp đã đến nơi, nhóm đầu tiên sẽ rời khỏi thủ đô Lekitan trên chuyến bay này.
“Kết hôn hồi nào vậy?” Trên đường trở về đại sứ quán, lão Chung liếc thấy chiếc nhẫn trên tay Trì Kính, hỏi: “Không thèm báo cho tôi một tiếng.”
Trì Kính cười đáp: “Có báo thì anh cũng đâu về được, chẳng lẽ còn định quay về dự đám cưới tôi sao?”
“Cậu nói chuyện đúng là khó nghe quá. Nói một tiếng thôi mà, không đi được thì tôi cũng có tư cách được biết chứ?”
Trì Kính gật đầu: “Có tư cách có tư cách, đương nhiên có tư cách rồi. Chị dâu với bé Quả Quả dạo này thế nào? Sức khỏe ổn cả chứ?”
“Ổn cả.”
Lão Chung công tác dài hạn ở nước ngoài, vợ và con gái ở trong nước, một năm không gặp được mấy lần.
Trì Kính vừa đến đại sứ quán đã phải tham gia cuộc họp khẩn. Tại cuộc họp, tham tán đại sứ quán đưa ra các chỉ thị cụ thể cho kế hoạch sơ tán lần này. Công tác sơ tán được chia làm hai hướng: đường hàng không và đường thủy. Trì Kính phối hợp với cán bộ ngoại giao sở tại để hỗ trợ đưa công dân Trung Quốc còn mắc kẹt tại các khu vực khác nhau trở về nước.
Trước khi đi, Dư Văn Gia dặn anh mỗi ngày phải báo tin bình an. Trì Kính đều đặn gửi tin nhắn cho cậu vào mỗi tối trước khi ngủ. Lekitan và Trung Quốc chỉ lệch múi giờ hai tiếng, nên sinh hoạt của hai người vẫn khá đồng bộ. Có lẽ Dư Văn Gia cũng bận rộn, lần nào cũng trả lời sau mười giờ tối.
Tối hôm đó, Trì Kính mệt đến mức về nơi ở là ngã lăn ra giường ngủ, không kịp tắm rửa cũng chẳng nhắn tin. Đến khi tỉnh dậy, anh thấy điện thoại có ba cuộc gọi nhỡ, đều đến từ Dư Văn Gia. Cuộc gọi cuối cùng đến lúc hơn bốn giờ sáng.
Anh ngồi bên giường, tay cầm điện thoại, lặng lẽ nhìn ra ngoài cửa sổ.
Trời vừa hửng sáng, anh gửi tin nhắn cho Dư Văn Gia: “Anh vẫn ổn, đừng lo.”
Chưa đến nửa tiếng sau, Dư Văn Gia trả lời: “Ừm.”
Lúc này Trì Kính đã có mặt ở đại sứ quán. Sau ba ngày nỗ lực, hầu hết công dân Trung Quốc bị mắc kẹt đã được đưa về an toàn, chiến dịch sơ tán bước vào giai đoạn kết thúc, công việc thu dọn vẫn đang được tiến hành khẩn trương và trật tự.
Tham tán nhận được thông tin từ đường dây nóng: một nhóm nhiếp ảnh gia đang bị kẹt ở một bộ lạc nguyên thủy tại Vanido. Khu vực gần Vanido là vùng chiến sự, đã trở thành đống đổ nát sau các cuộc không kích. Không có phương tiện giao thông, nhóm người này không thể tự di chuyển, cần người đến đưa họ đến cảng Gafibia để sơ tán bằng đường thủy.
Gần vùng chiến sự đồng nghĩa với khả năng chạm trán lực lượng vũ trang. Phần lớn khu vực Lekitan dùng tiếng Pháp. Trong nhóm chỉ có lão Chung và Trì Kính nói lưu loát. Để dễ ứng phó khi gặp tình huống bất ngờ, Trì Kính chủ động nhận nhiệm vụ.
“Cậu điên à, việc nguy hiểm thế mà cũng xung phong. Không biết nơi đó sát chiến trường à?” Vừa họp xong, lão Chung đã không nhịn được mà càu nhàu.
“Chỉ là gần thôi, vẫn còn cách một đoạn.” Trì Kính cố tỏ ra nhẹ nhàng, “Yên tâm, tôi còn quý cái mạng này lắm.”
“Cậu mà biết quý cái mạng sao.”
Bao nhiêu năm rồi, Trì Kính vẫn chẳng thay đổi gì, vẫn là người như ngày trước, chuyện gì cũng xông pha lên đầu tiên.
Hồi trẻ lão Chung cũng từng giống hệt như vậy, lúc nào cũng căng tràn khí thế, nhiệt huyết sục sôi, gặp chuyện là muốn xông lên trước, làm gì cũng đầy tích cực. Nhưng giờ thì khác rồi, có tuổi, trong nhà lại có hai người thân để lo, luôn cảm thấy có lỗi nên tâm thế cũng dần thay đổi. Giờ hắn chỉ mong mọi việc yên ổn, an toàn là đủ.
Lão Chung nhìn Trì Kính như nhìn đứa em trai của mình, thấy anh nhận nhiệm vụ nguy hiểm như vậy, làm sao không lo cho được.
Trước khi Trì Kính lên đường, lão Chung bảo anh mặc áo chống đạn vào. Bản thân ông cũng có nhiệm vụ riêng, không thể đi cùng Trì Kính. Nhân lực ở đại sứ quán không đủ, nhiều cán bộ ngoại giao được điều sang hỗ trợ sơ tán cũng đã theo chuyên cơ về nước, không thể cử thêm người đi cùng Trì Kính lần này. Trong chuyến công tác này, Trì Kính có mang theo trợ lý Trần Dật, nhưng hôm nay đến Vanido, anh lại không định cho Trần Dật theo.
“Anh Trì, để tôi đi cùng anh.” Trần Dật bám theo anh.
Trì Kính lắc đầu: “Cậu ở lại đại sứ quán, lão Chung sẽ sắp xếp nhiệm vụ khác cho cậu.”
“Nhưng tôi là người đi theo anh mà.” Trần Dật có phần gấp gáp và chân thành, “Tôi là cấp dưới của anh, anh phải dùng đến tôi chứ. Dẫn tôi theo đi, anh Trì, tôi muốn đi cùng anh, dẫn tôi theo nhé, nhé, nhé…”
Giờ cậu ta đã hiểu rõ tính Trì Kính, không còn dè dặt như lúc mới quen nữa.
Trì Kính nhìn Trần Dật một cái: “Giờ biết niệm kinh rồi à?”
Trần Dật chắp tay, vẻ mặt mong mỏi: “Anh Trì, cho tôi đi theo với.”
Trì Kính im lặng một lúc, rồi gật đầu: “Đi thôi.”
Đại sứ quán cử cho Trì Kính một tài xế và một chiếc xe buýt cỡ nhỏ, chở được khoảng mười người. Trên nóc và hai bên xe đều dán quốc kỳ Trung Quốc. Đây là nhiệm vụ cuối cùng của Trì Kính trong chiến dịch sơ tán lần này - đưa mười hai người đang mắc kẹt về điểm sơ tán tại cảng Gafibia, sau đó anh sẽ cùng họ lên tàu rời khỏi đất nước này.
Trì Kính từng ở đây hai năm, quốc gia trẻ này chưa kịp phát triển thì đã chìm trong khói lửa. Càng đến gần điểm đến, đường phố càng thưa người, đi ngang qua một vài nơi, đâu đâu cũng là dấu tích bom đạn tàn phá.
Xe chạy suốt ba tiếng rưỡi, cuối cùng cũng đến nơi an toàn.
Khu vực này là rừng thuộc bộ lạc nguyên thủy, không có đường nhựa, chỉ có đường đất. Mấy ngày trước mới mưa, đất mềm nhão, chiếc xe buýt lao qua con đường bùn lầy, bắn đầy đất lên thân xe. Xe dừng ở rìa bộ lạc, Trì Kính và Trần Dật xuống đi bộ vào. Mười hai người đang bị kẹt tụ tập dưới gốc cây bao báp ở lối vào bộ lạc.
Thấy có hai người từ xa đi tới, có người lập tức đứng dậy hét lớn: “Có người tới rồi! Là người Trung Quốc! Người của đại sứ quán tới rồi!”
Mười hai bạn trẻ đến đây chụp ảnh, ghi hình đã bị mắc kẹt vài ngày. Trong nước nổ ra chiến sự, vùng biên liên tục bị đánh phá khiến họ hoàn toàn bị kẹt lại.
Một nam sinh đang nằm dưới gốc cây, người đắp mấy chiếc áo khoác, mắt nhắm nghiền, toàn thân run rẩy, trán lấm tấm mồ hôi.
Trì Kính ngồi xuống hỏi: “Cậu ấy sao vậy?”
“Mắc sốt rét rồi ạ.” Có người đáp, “Bọn em đã cho uống thuốc sốt rét nhưng không thấy đỡ.”
“Bao lâu rồi?” Trì Kính hỏi tiếp.
“Ba ngày rồi.”
“Có đau bụng không?” Trì Kính quay sang hỏi nam sinh đó.
Cậu ta yếu ớt đáp một tiếng: “Ừm…”
Trì Kính vén áo khoác phủ trên người nam sinh kia ra, kéo áo cậu lên xem thì thấy bụng và ngực nổi đầy mẩn đỏ. Sốt cao ra mồ hôi, đau bụng, phát ban – không chỉ là triệu chứng của sốt rét.
“Có thể còn bị thương hàn nữa.” Trì Kính đứng dậy nói.
Anh bảo mọi người thu lại hết áo khoác trên người nam sinh đó, Trần Dật đi trước dẫn đường, còn Trì Kính thì cõng cậu nam sinh đi sau cùng.
Trên xe có hộp y tế, Trì Kính kiểm tra nhanh và xác nhận cậu ấy thật sự bị sốt rét.
Từ chỗ này đến cảng Gafibia ít nhất phải mất bốn tiếng. Không thể để cậu ấy nằm đó suốt bốn tiếng mà không xử lý gì, bệnh đã kéo dài ba ngày rồi, nếu còn tiếp tục chậm trễ thì rất nguy hiểm.
Trì Kính có chứng chỉ sơ cứu, trong hộp y tế cũng có sẵn thuốc và kim tiêm, anh truyền nước biển ngay trên xe cho nam sinh kia.
Xe buýt chạy khoảng một tiếng thì đến được một thị trấn nhỏ gần nhất. Nơi này cũng từng bị oanh tạc, nhà cửa đổ nát, bốn bề hoang vắng không một bóng người.
Trì Kính ngồi ghế phụ phía trước, cảm thấy xe hình như càng chạy càng chậm. Anh quay sang nhìn tài xế, người đó tặc lưỡi rồi cau mày: “Chắc nổ lốp rồi.”
Suốt dọc đường mọi chuyện đều trôi chảy, bây giờ lại xảy ra sự cố nhỏ. Chỗ này toàn gạch đá đổ nát, mặt đường lởm chởm đá to nhỏ, xác suất thủng lốp rất cao.
“Trên xe có bánh dự phòng không?” Trì Kính hỏi.
“Có.”
“Vậy thay nhanh lên.”
Tài xế tấp xe vào lề. Một nam sinh ngồi hàng ghế sau ngó đầu ra hỏi: “Có chuyện gì thế, sếp?”
“Nổ lốp rồi, tụi anh phải xuống thay bánh.”
“Có cần giúp không?” Cậu trai đứng lên, “Em giúp anh nhé?”
“Không cần, mọi người ngồi yên đợi một chút, đừng mở cửa sổ, đừng xuống xe.” Trì Kính nói rồi xuống xe cùng tài xế, Trần Dật cũng bước xuống theo.
Trì Kính phụ tài xế tháo và thay bánh xe, Trần Dật đứng bên phụ giúp. Trì Kính thao tác còn thuần thục hơn cả tài xế, khiến Trần Dật không khỏi nghĩ: sếp mình đúng là toàn năng thật.
Mặt trời lặn, trời dần tối.
“Tiểu Phi, qua đây rọi đèn cho tôi một chút.”
“Dạ!” Trần Dật bật đèn pin trên điện thoại, vừa đưa tay ra thì bất chợt - đoàng! - một tiếng súng vang lên.
Trì Kính phản xạ theo bản năng, đè đầu Trần Dật xuống, bảo vệ cậu. Tài xế đã ôm đầu nằm rạp xuống đất. Người Trung Quốc vốn không nhạy với tiếng súng, phản ứng đầu tiên là đứng đơ ra, vì thế trong khoang xe không một tiếng động.
Tim Trì Kính đập thình thịch, Trần Dật ôm đầu ngồi thụp bên cạnh, cả người run bần bật.
Trì Kính liếc nhanh về phía sau, viên đạn bắn trúng cái lốp xe vừa tháo ra. Anh nhìn vị trí vết đạn để ước đoán hướng bắn, sau đó không nhúc nhích, cao giọng hét lên bằng tiếng Pháp: “Chúng tôi là người Trung Quốc!”
Trên nóc xe buýt dán cờ Trung Quốc, bọn họ chắc chắn phải thấy. Dù khu vực này không nằm trong vùng giao tranh, nhưng có thể là nơi đóng quân của các tay súng vũ trang.
Phía bên kia không có thêm động thái gì. Xung quanh im lặng đến mức chỉ nghe được tiếng gió thổi.
Không thể cứ tiếp tục chờ như vậy. Trên xe còn rất nhiều người, càng kéo dài thời gian, tinh thần của họ càng dễ suy sụp.
Trì Kính thò tay vào túi áo, lấy ra hộ chiếu ngoại giao, từ từ giơ lên cao, tiếp tục dùng tiếng Pháp lớn tiếng nói: “Tôi là nhân viên ngoại giao của Trung Quốc, chúng tôi đều là công dân Trung Quốc!”
Anh giơ hộ chiếu, vịn vào thân xe chậm rãi đứng dậy.
Đoàng! – một tiếng súng nữa vang lên, lần này trong khoang xe vang lên vài tiếng thét hoảng loạn ngắn ngủi.
Trì Kính nhắm mắt lại theo phản xạ.
Phát súng đó vẫn chỉ bắn vào cái lốp xe bị hỏng ban nãy.
Anh hít một hơi sâu, mở mắt ra, hai tay vẫn giơ cao, một tay nắm hộ chiếu, lớn tiếng: “Chúng tôi là người Trung Quốc! Không mang theo vũ khí!”
Phía sau truyền đến tiếng bước chân. Có người đá vào cái lốp xe dưới đất, giơ súng chĩa vào Trì Kính: “Nhân viên ngoại giao Trung Quốc?”
Trì Kính nuốt khan một cái, gật đầu: “Phải.”
“Quay người lại.”
Trì Kính làm theo. Người kia giơ súng, dùng nòng súng khều hộ chiếu của anh ra để xem. Sau lưng gã còn có một tên khác, cũng vác súng bước đến chỗ tài xế và Trần Dật, dùng súng nâng cằm họ lên nhìn mặt từng người.
Một tên dùng nòng súng dí thẳng vào trán Trì Kính.
Cảm nhận được cái lạnh ở thái dương, Trì Kính khẽ ngửa đầu ra sau, nhắm mắt một chút, yết hầu lăn nhẹ.
Anh thở chậm lại, bình tĩnh nói: “Trên xe đều là người Trung Quốc, chúng tôi chỉ đi ngang qua, không mang theo vũ khí.”
Tên còn lại lên xe, giơ súng đi một vòng, kiểm tra kỹ từng gương mặt rồi xuống xe, gật đầu ra hiệu cho đồng bọn.
Tên đang cầm hộ chiếu trong tay rút ra xem, môi nhếch lên nụ cười khinh khỉnh.
Gã ngẩng đầu nhìn Trì Kính, ánh mắt hai người giao nhau. Bất ngờ, tên kia giơ súng nhắm thẳng vào trán anh.
Trì Kính nhìn chằm chằm không chớp mắt, trong mắt không có chút sợ hãi.
Tên kia khẽ lắc đầu, sau đó cười lạnh một tiếng, thu súng lại, ném hộ chiếu vào mặt Trì Kính.
“Cút mau.”
Trì Kính cúi xuống nhặt hộ chiếu, đỡ tài xế và Trần Dật đứng dậy, rồi cùng họ trở lại xe.
Tài xế ngồi vào ghế lái, tay đặt trên vô lăng vẫn còn run bần bật. Anh ta không khởi động xe ngay, Trì Kính quay đầu liếc nhìn, thấy tay anh ta run lên bần bật.
“Để tôi lái.” Trì Kính đứng dậy nói.
Tài xế hít sâu một hơi, siết vô lăng, rồi xua tay: “Để tôi!”
Trong xe lác đác vang lên tiếng khóc nghẹn. Trì Kính quay đầu lại nhìn, mỉm cười nhẹ, trấn an: “Không sao rồi, chúng ta về nhà thôi.”
Chiếc xe buýt lao vút trên con đường, Trì Kính tựa đầu vào lưng ghế nhắm mắt lại, nhưng suốt chặng đường, thần kinh anh chưa từng thật sự thả lỏng.
Ba tiếng sau, xe an toàn đến cảng Gafibia.
Khi bước xuống xe, tay Trì Kính vẫn lạnh toát. Lão Chung biết nhóm người Trì Kính dẫn theo sẽ đến khoảng thời gian này, vừa thấy anh dẫn mọi người đến kiểm tra hộ chiếu xếp hàng lên tàu, hắn lập tức tìm đến.
“Có chuyện gì à?” Lão Chung vẫn chưa biết chuyện gì xảy ra dọc đường, nhưng nhìn sắc mặt Trì Kính tái nhợt, môi còn hơi trắng bệch, hắn đã đoán được phần nào.
Trì Kính cười nhạt, giọng hơi khàn: “Mệt.”
“Trên đường xảy ra chuyện?”
Trì Kính đi sang một bên, hỏi: “Có thuốc lá không?”
Lão Chung rút gói thuốc ra, đưa cho anh một điếu, Trì Kính ngậm lấy, nhận bật lửa rồi châm thuốc.
Đã lâu lắm rồi anh không hút lại.
Cảnh tượng họng súng dí sát trán vẫn liên tục hiện lên trong đầu anh như một cuộn phim tua đi tua lại.
— Anh vẫn ổn, đừng lo.
Đó là tin nhắn anh gửi cho Dư Văn Gia sáng nay.
Một câu nói… chứa đầy sự không chắc chắn.
Trì Kính nhả một làn khói, im lặng nhìn ra biển xa.