Tần Liệt đã được nghe tên Bảo Khâm từ nhiều năm trước. Khi ấy ông ngoại hắn - Lưu lão tướng quân vẫn còn sống, nhưng ông không còn cầm quân đánh giặc nữa, nhàn rỗi rảnh rang đi khắp chốn, tụ họp bạn bè. Mùa đông năm đó, lúc trở về, ông không ngừng nhắc đến cái tên “Bảo nha đầu.”
“Thật đáng thương! Tiểu cô nương mới bao nhiêu tuổi cơ chứ, vậy mà đã phải ra chiến trường, còn nhỏ hơn mẫu thân con khi ấy…”
“Nếu chẳng may bị thương ở đâu, sau này biết gả cho ai…”
“A Liệt à, con đi nói thằng nhóc Tần Tu nhà con một tiếng, bảo nó hạ thủ lưu tình! Dù sao nước ta và nước Trịnh cũng không có thù oán gì sâu đậm, đừng đánh cô nương nhà người ta phải khóc…”
Tần Liệt phải nghe đi nghe lại nhiều lần, cuối cùng không chịu nổi, phái người đi thăm dò tin tức. Trấn giữ phía Đông là Tần Tu, tính tình nóng nảy, nhưng mà hơi ngốc, Tần Liệt không dám nói chuyện này cho hắn biết.
Người được phái đi nghe ngóng rất nhanh đã trở về, kết quả ngoài dự đoán của hắn: Tần Tu bị nha đầu “đáng thương” đó đánh cho tan tác, cả ngày kêu gào đòi báo thù rửa hận. Bản lĩnh của Tần Tu thế nào Tần Liệt biết rõ, tuy không giỏi dùng mưu nhưng dũng mãnh, dưới trướng còn có không ít tướng tài thiện chiến, vậy mà lại thua thảm hại dưới tay một nha đầu? Tần Liệt bắt đầu cảm thấy cô nương họ Chung không phải người dễ dàng bị bắt nạt như lời ông ngoại nói.
Không lâu sau, Lưu lão tướng quân qua đời, quân Yên nhân cơ hội tập kích bất ngờ, Tần Liệt bận rộn đến sứt đầu mẻ trán, quên bẵng chuyện này. Khi nghe tin “Chung tiểu tướng quân” uy danh vang dội vây Tần Tu ở Xuân cốc đã là chuyện của hai năm sau.
Quan hệ giữa Tần Liệt và Tần Tu rất kỳ lạ. Trên thực tế, trong đám huynh đệ, Tần Liệt chỉ hòa thuận với Thái tử, còn Tần Tu lại khác với đám huynh đệ của hắn. Tần Tu mất mẹ từ nhỏ, tính tình hơi cực đoan, rất thích đối đầu với Tần Liệt. Sau vài lần gây gổ, Tần Liệt lại bắt đầu thương hại hắn.
Nhân lúc quân Yên còn chưa biết tin, Tần Liệt vội vàng dẫn quân đi cứu Tần Tu.
Càng đi về phía Đông, tin tức hắn nghe được càng kinh người, thậm chí còn có tin đồn “Chung tiểu tướng quân” muốn giết Tần Tu để cúng tế. Tần Liệt cảm thấy người có thể đánh Tần Tu thành như vậy ắt hẳn không phải kẻ ngốc, nhưng hễ nhớ đến Chung tiểu tướng quân đó chỉ là một cô nương, ai mà biết nàng ta có bị người khác dụ dỗ, lợi dụng hay không?
Nghĩ vậy, Tần Liệt không nhịn nổi nữa, quyết định dẫn theo gần hai chục thị vệ, giả làm thương nhân bán hàng da tiến về phía trước.
Quân Yên ở phía Bắc đã bị hắn đánh cho ngoan ngoãn từ lâu, không ngờ bên phía Đông lại nhiều thổ phỉ như thế. Đoàn người của Tần Liệt đi không lâu, liền bị một đám thổ phỉ chú ý.
Trong lòng Tần Liệt chợt lóe tinh quang, có thứ gì đó mãnh liệt xuyên qua gân cốt và đầu óc hắn, muốn bắt lại mà không được.
Thấy Tần Liệt im lặng, đám thị vệ lo lắng muốn mở miệng trả lời, nhưng sợ nói sai sẽ bị trách tội. Họ sốt ruột đến mức vò đầu bứt tai. May mà cuối cùng hắn cũng có phản ứng, bình tĩnh đáp: “Vị tướng quân này, chúng tôi là thương nhân buôn hàng da đến từ nước Tần, vừa tiến vào Tống Châu thì gặp phải thổ phỉ, chúng nhất quyết truy đuổi không tha. May mà có tướng quân giúp đỡ mới may mắn sống sót.” Lúc nói, hắn hơi cúi đầu, thu lại tinh quang trong mắt, ra vẻ thành thật.
Họ bị thương không ít, trông nhếch nhác vô cùng, nhưng dù sao cũng là người được huấn luyện trong quân đội nên cơ thể vẫn toát lên sát khí. Tướng quân trẻ tuổi hiển nhiên không tin lắm, nheo mắt nhìn họ, nhếch miệng cười, lộ ra hàm răng trắng: “Các vị đều là người trong phủ ngươi? Thân thủ không tồi!”
Ánh mắt Tần Liệt tỏ vẻ sợ hãi: “Mấy vị này đều là huynh đệ trong tiêu cục Chấn Uy, tướng quân cũng biết, chúng tôi buôn bán da không dễ dàng gì, trên đường rất hay gặp cướp nên mới mời mấy huynh đệ này đến bảo vệ. Không ngờ vẫn…” Hắn vừa nói vừa thở dài.
Đám thị vệ thấy thế, biết ý lên trước chào hỏi vị tướng quân trẻ tuổi kia, tạ ơn cứu mạng một cách thành khẩn. Tướng quân trẻ tuổi không tranh cãi nữa, cười cười nói chuyện với họ, sau đó sai thuộc hạ đưa những người này về doanh trại.
Gã béo sốt ruột, vội vàng đuổi theo: “Không phải chứ? Tướng quân định thả hắn thật? Tiểu nhân cảm thấy bọn chúng tám, chín phần là gian tế…”
“Người nước Tần, dù là gian tế thì sao? Ngươi thật sự muốn dồn Tần Tu vào chỗ chết ư?”
Tần Liệt nghe vậy, không nhịn được lắc đầu. Sớm biết người ta căn bản không muốn lấy mạng Tần Tu, hắn đã chẳng cần vội vàng đuổi theo. May mà… may mà… Tần Tam gia vẫn luôn lạnh lùng không biết nghĩ đến điều gì, đột nhiên đỏ mặt. Đám thị vệ nhìn nhau rùng mình.
Giải quyết xong mọi chuyện, Tần Liệt liền trở về doanh trại Tây Xuyên, nhưng trước khi đi, hắn đã để lại hai tâm phúc của mình ở đây. Từ đó, mỗi tháng hắn đều nhận được “quân tình khẩn cấp” từ Hồng Cốc quan. Mãi cho đến mùa hè hai năm sau, nước Trịnh truyền tin Chung Bảo Khâm được ban chết.
Khi ấy, Tần Liệt bắt đầu đề nghị hòa thân. Hắn không còn trẻ, nếu ở trong kinh thành, e đã bị Tần Đế ban hôn từ lâu, con cháu đầy đàn. Nhưng những năm này hắn dành phần lớn thời gian ở Tây Xuyên, ỷ vào việc Lưu lão tướng quân còn sống, không ít lần giận dỗi Tần Đế. Sau này, Lưu lão tướng quân mất rồi, hắn mượn cớ để tang không lấy vợ. Cứ như vậy cho đến năm hắn hai mươi tư tuổi, Tần Đế không nhẫn nhịn nổi nữa.
Chuyện hôn nhân của Tần Liệt không dễ định đoạt. Hắn nắm trong tay mười vạn quân Tây Xuyên, nếu thông gia là một gia đình quyền cao chức trọng, khó tránh khỏi dẫn đến triều đình không yên. Nhưng nếu kết thân với một gia đình bình thường, Tần Đế sẽ không đành lòng… Dù sao Tần Liệt cũng là đứa con ông ta yêu thương nhất. Suy nghĩ kỹ càng một phen, cuối cùng ông quyết định chọn Thất công chúa nước Trịnh - thân phận cao quý, tướng mạo xuất chúng, tri thư đạt lễ, đoan trang phóng khoáng. Tập tục nước Trịnh bảo thủ, con gái hiểu biết lễ nghĩa, tốt hơn nhiều so với mấy cô nương điên điên khùng khùng, không biết xấu hổ ở Phong thành.
Tần Đế càng nghĩ càng thấy đây là ý kiến hay. Ông thậm chí còn không thèm nói với Tần Liệt một câu đã lập tức sai sứ giả sang nước Trịnh cầu thân. Đợi đến khi Tần Liệt biết tin, văn thư đính hôn giữa hai nước đã xong.
Lần này Tần Liệt không hề nổi cáu với Tần Đế, trên thực tế, hắn đang vì chuyện của Chung Bảo Khâm làm cho quay cuồng. Vừa mới buồn bã vì tức giận nàng chết oan, rồi ngay sau đó nhận tin nàng được cứu sống, không biết phải làm gì mới đưa nàng rời khỏi nước Trịnh, đến nước Tần… Chuyện nào cũng khiến hắn đau đầu.
Còn về Thất công chúa gì đó, chỉ cần hắn không muốn lấy, thiếu gì cách bỏ.
Hắn là con cháu thế gia, quen ăn sung mặc sướng từ nhỏ, đâu làm mấy chuyện này bao giờ. Chưa đến hai ngày, bàn tay hắn đã nứt nẻ. Hắn tính tình quật cường, không muốn để sư phụ biết, đành cắn răng chịu đựng nuốt hết mọi khổ nhọc vào người. Nhưng dù sao Lương Khinh Ngôn vẫn còn quá nhỏ, lúc đau đớn vô cùng liền ra sau núi không có bóng người, một mình khóc lớn, xem như trút hết mọi việc ra ngoài.
Chiều hôm đó, hắn ngồi bên gốc mai sau núi khóc lóc, lại nhớ đến cha mẹ trong Kinh thành, lòng càng buồn hơn, tiếng khóc cũng ngày to theo.
“Ca ca à! Ca ca..” Trong lúc đang khóc lóc thảm thiết, đột nhiên hắn nghe thấy giọng nói lanh lảnh thì sợ hãi, định quay người đi, chợt trông thấy một đứa bé chừng năm, sáu tuổi, mũ đội trên đầu không biết là nam hay nữ. Đứa bé mặc áo màu đỏ, áo choàng màu trắng, đôi mắt vừa to vừa đen nháy nhìn hắn chớp chớp, vẻ nghi hoặc khó hiểu.
Bị người ta bắt quả tang tại trận, phải làm thế nào đây? Lương Khinh Ngôn khóc không ra nước mắt.
Trong nháy mắt, người đàn ông cao lớn tuấn tú đã đến đây, thấy hai người đang trừng mắt nhìn nhau, thì bật cười: “Sư huynh muội các con đã làm quen rồi sao?”
Sư muội… Lương Khinh Ngôn nghiêng đầu nhìn A Bảo, thì ra là một tiểu cô nương, thảo nào lại xinh xắn như vậy. Nhưng, nếu lát nữa nàng mách tội với cha nàng và sư phụ, hắn biết làm sao bây giờ?
Lương Khinh Ngôn lo sợ bất an mất mấy hôm, nhưng vẫn không thấy sư phụ trách phạt, sư muội hồn nhiên tên A Bảo còn tìm hắm chơi đùa. Lương Khinh Ngôn thấy vậy, trong lòng càng thêm áy náy. Qua mấy ngày, cuối cùng hắn không thể chịu nổi nữa, lặng lẽ chặn A Bảo lại, hỏi: “Sao muội không đi mách sư phụ chuyện hôm ấy ta đẩy muội?”
A Bảo mở to đôi mắt đen láy, nhìn hắn khó hiểu: “Chẳng qua đại sư huynh chỉ muốn đùa với A Bảo thôi mà, sao A Bảo phải đi mách sư phụ?”
Lương Khinh Ngôn nhất thời nghẹn họng. Lương gia không thiếu con gái, tuổi tầm A Bảo cũng có mấy đứa, nhưng dù là con vợ cả hay con vợ lẽ cũng đều khác hẳn nàng. Lương Khinh Ngôn chỉ thấy mấy đứa bé trong nhà hoặc điêu ngoa, hoặc nhõng nhẽo, hoặc khúm núm bảo sao nghe vậy, chứ chưa từng thấy ai phóng khoáng độ lượng như A Bảo, trong chốc lát vừa bất ngờ, vừa khó hiểu.
Rất nhiều năm sau đó, bất ngờ và khó hiểu đã trở thành thói quen. Khi mới lên núi A Bảo còn rất nhỏ, mấy ngày sau khóc nức nở đòi về nhà. Lương Khinh Ngôn trong một đêm đã trưởng thành lên rất nhiều. Hắn luôn dùng lời hay ý đẹp khuyên nhủ, dỗ dành nàng. Hắn còn rất nhẫn nại ở bên cạnh nàng. Tiểu sư muội hoạt bát thẳng thắn đã trở thành một phần trong cuộc sống của hắn. Họ cùng nhau đọc sách, cùng nhau luyện kiếm, cùng nhau ra sau núi mò cá đào trứng chim, lén nhóm lửa nướng cá ăn…
Lương Khinh Ngôn cho rằng, cả hai sẽ mãi tốt đẹp như vậy, năm A Bảo mười bốn tuổi, Chung tướng quân có ý hai nhà kết thông gia, hắn vui vẻ đến mức cả đêm không ngủ được.
Nhưng, nào ngờ mọi chuyện lại thành ra thế này. Vào lễ mừng đại thọ của Lương lão phu nhân, Lương Khinh Ngôn mới về Kinh một chuyến, khi trở lại đã hay tin Chung tướng quân hi sinh ngoài chiến trường, còn A Bảo của hắn trở thành tiểu tướng quân ngoài Tây Bắc.
Dù võ công của nàng giỏi đến đâu, dù khí thế của nàng có mạnh đến đâu, nàng vẫn chỉ là một thiếu nữ mới lớn. Cả đội quân Tây Bắc sao có thể đè nặng lên đôi vai non nớt ấy được?
Nàng vốn nên là tân nương dịu dàng của hắn…
Lương Khinh Ngôn bất chấp gia đình phản đối, kiên quyết rời Kinh thành, chạy đến nơi quân Tây Bắc đóng trại, ở lại bốn năm liền.
Doanh trại Tây Bắc có can hệ đến an nguy biên giới nước Trịnh, có mười vạn đại quân, là nơi rất nhiều người trong triều mơ ước có được. A Bảo là “con trai” của Chung tướng quân, được thuộc hạ cũ của Chung gia giúp đỡ, còn lập công ngoài chiến trường, hiển nhiên được tiếp quản đại quân Tây Bắc. Nhưng nàng còn trẻ chưa từng trải, nên khi nguy cơ vừa được giải quyết, nhiều người trong triều bắt đầu ngấp nghé đến chỗ nàng. A Bảo một mình chẳng thể ứng phó, chẳng bao lâu bị ép giao soái ấn, chỉ được cái danh “Phiêu kỵ tướng quân”.
Nhưng ở nơi loạn lạc, dựa vào chiến công anh hùng, đám “đại tướng quân” từ trên trời rơi xuống sao có thể chỉ huy được những binh sĩ thường xuyên chém giết trong máu tươi? Bọn họ ra lệnh khô cả giọng cũng chẳng bằng một câu nói vu vơ của A Bảo.
A Bảo như vậy, sao không khiến người ta ghen ghét đố kỵ?
Nàng dũng mãnh thiện chiến, rất có tiếng trong quân nhưng lại không giỏi giao tiếp với đám quan viên trong triều. Nàng tính tình ngay thẳng, nói năng bộc trực, thường xuyên khiến đám cấp trên bụng dạ xấu xa nổi trận lôi đình. Lương Khinh Ngôn giúp đỡ nàng trên mọi phương diện, từ hỗ trợ lương thực đến lễ lạt trong cung hay ngăn chặn những tình huống ngặt nghèo.
Hắn tưởng hắn có thể bảo vệ nàng, nhưng không ngờ mọi việc còn nghiêm trọng hơn tưởng tượng rất nhiều.
Chung Bảo Khâm đã bị ban chết, thuộc hạ cũ trong quân Tây Bắc tan đàn xẻ nghé, A Bảo tuy giữ được tính mạng, nhưng thân thể bị thương, không chịu nổi một đòn.
Nàng không còn là Chung tiểu tướng quân năng nổ của quân Tây Bắc, cũng chẳng thể làm thiên kim đại tiểu thư cả ngày trong nhà, không hiểu quy củ, có lẽ ngay cả phu nhân nhà họ Lương cũng khinh thường nàng.