Sư Phụ Ta Rốt Cuộc Là Ai

Chương 1



Ta choàng tỉnh giấc từ trong ảo cảnh, ngôi miếu đổ nát tĩnh lặng như thể đang nghênh đón quỷ mị đến gần.

Phàn Ngọc và Mộ Dung Tuyết tựa như hóa đá, khóe miệng còn vương nụ cười quái dị.

Ta đưa tay tìm miếng ngọc bội trên người, lại phát hiện nó sớm đã không còn tung tích.

Sống lâu đến thế, ngoài lần sư phụ mất tích, ta chưa bao giờ cảm thấy sợ hãi như lúc này.

Ta giống như con cừu non chờ bị làm thịt, kẻ phía sau coi ta như rối gỗ, giật dây sai khiến ta làm đủ chuyện.

Từ đầu đến cuối, ta chỉ một mực tin sư phụ, hoặc là tin vào tên nam tử tộc Dị Đồng kia.

*tộc Dị Đồng: tộc nhân đều có 2 màu mắt khác nhau

Đoạn ký ức trước khi gặp sư phụ, vẫn mãi là khoảng trống.

Ta không biết mình sinh ra ở đâu, cũng chẳng biết phụ mẫu là ai, mỗi lần ta hỏi đến, sư phụ đều khéo léo chuyển sang chuyện khác.

Bao nhiêu bí ẩn này đến bao giờ mới có thể giải đáp?

Ta cắn răng, tháo miếng ngọc bội hình bán nguyệt trên cổ, mạnh mẽ đâm vào ấn ký hoa sen nơi cổ tay.

Ta từng vào Tàng Thư Các - cấm địa của Bồng Lai, trong truyền thuyết thượng cổ, kẻ mang ấn hoa sen trên thân có thể khiến thiên địa hỗn loạn, cũng có thể khiến nhân gian yên bình.

Song, người như vậy đã biến mất cách đây hàng vạn năm.

Ta lại muốn xem thử, truyền thuyết ấy có chuẩn xác hay không.

Ngay khoảnh khắc mảnh ngọc hình bán nguyệt đâm vào ấn ký, trong đầu ta vụt lóe lên những ký ức vốn chẳng thuộc về mình.

Là dáng vẻ âm độc chưa từng hiện trên gương mặt hiền từ của sư phụ, là hình bóng nam tử Dị Đồng ôm ta khóc thảm, và cả dáng vẻ tên hòa thượng âm dương toan ném ta vào hỏa diễm.

Giờ khắc này, ta tựa hồ chỉ là một kẻ ngoài cuộc, không rõ chuyện gì đang xảy ra.

Người sư phụ coi ta như cốt nhục, rốt cuộc là kẻ thế nào?

Đang lúc ta đắm chìm, không thể thoát ra, ta nghe thấy một tiếng gọi liên hồi.

Đó là giọng một nữ tử, nàng gọi ta: “Xu nhi.”

Ngọc bội trong tay nàng phát ra quang mang, miệng còn khẽ lẩm bẩm gì đó.

Ta không nhìn rõ dung nhan, chỉ cảm thấy cảnh vật trước mắt dần thêm rõ ràng, tựa như đang ở Bồng Lai tiên khí lập lờ, gân mạch toàn thân bỗng thông suốt.

Ngay tại khoảnh khắc ta định nhìn kỹ gương mặt nàng, giọng của Phàn Ngọc đã lọt vào tai.

Thân thể ta ngứa ngáy, như có ai đang gãi.

Vốn dĩ ta sợ ngứa, cú gãi này khiến ta rất muốn cười.

“Mộ Dung Tuyết, ngươi dùng sức hơn chút, gãi mau đi.”

“Sư tỷ sợ ngứa như thế mà còn không tỉnh, e rằng không ổn rồi. Chúng ta nên giải tán, chuẩn bị hậu sự thôi.”

Phàn Ngọc cái tên thối tha này, dám nguyền rủa ta, xem ta không lột cái da hồ ly của hắn mới lạ!

Ta mở mắt, đối diện với ánh mắt Mộ Dung Tuyết, nàng run rẩy một cái, rồi òa khóc đến mức xấu xí vô cùng:

“Phàn Ngọc! Tỷ ấy tỉnh rồi, tỉnh rồi!”

Ta ngẩn ngơ một khắc, đảo mắt nhìn quanh, mới phát hiện đây nào có phải miếu hoang.

“Phàn Ngọc, chẳng phải ta và các ngươi đang tránh mưa trong miếu ư? Sao lại ở đây? Đây là nơi nào?”

Hai người đưa mắt nhìn nhau, sắc mặt Phàn Ngọc trầm trọng:

“Sư tỷ, miếu gì chứ? Chúng ta vốn xuống thuyền xuôi Nam Giang, Tiêu Vương đã cử một đội hộ tống. Nhưng tỷ vừa lên thuyền liền hôn mê, đã ngủ chừng mười ngày.”

Mộ Dung Tuyết gật đầu: “Hắn nói không sai. Từ lúc lên thuyền, tỷ vẫn ngủ say, chúng ta nghĩ tỷ tổn hao nguyên khí nên không quấy nhiễu.”

Ta đẩy cửa sổ, thuyền đã gần cập bến.

Nam Giang sống nhờ vào biển, bến cảng buôn bán toàn là hải sản.

Tiếng rao hàng, tiếng chào mời vang dậy một vùng.

Một cơn gió thổi qua, chút lạnh lẽo khiến ta tỉnh táo thêm nhiều. Ta kéo áo trên người, phát hiện ngọc bội vẫn còn nguyên trên người.

Song, giấc mộng kia lại chân thật đến thế, bởi nỗi đau… vốn chẳng thể lừa được ai.

2

Xuống thuyền, chúng ta ba người dạo một vòng nơi chợ bến cảng.

Hải sản nơi này quả thật tươi mới, Mộ Dung Tuyết sinh ra ở Kinh Giang, chưa từng thấy cá tôm nào sống động đến thế, vui mừng đến nỗi chẳng muốn nhấc chân đi, ồn ào bắt Phàn Ngọc mua một ít đem về khách điếm nếm thử độ tươi ngon.

Ta vòng quanh một hai lượt, phát hiện nơi đây không chỉ bán hải sản, còn có đồ làm trang sức – chính là ngọc trai.

Có ngọc trai, tất có người lặn mò.

Khi tiên hoàng, cũng chính là ông nội của Mộ Dung Tuyết, còn tại vị, ngọc trai là mặt hàng thông thương khắp nơi, trở thành một trong những sản nghiệp trọng yếu của Đại Tần.

Thuở ấy việc lặn mò ngọc hết sức cầu kỳ, mà kẻ lặn mò được gọi là dân lặn.

Bách tính vốn theo núi ăn núi, theo nước ăn nước, song xuống nước chẳng thể cứ thích là xuống được.

Mỗi lần, tộc trưởng trong thôn đều phải triệu tập dân lặn, giết heo mổ dê, thậm chí lấy đồng nữ hiến tế hải thần.

Chỉ cần có chút sơ suất thiếu thành kính, kẻ xuống nước hoặc là bị lật thuyền, hoặc bị cá lớn dưới biển nuốt chửng.

Ra biển cũng có quy củ: chỉ nam nhân mới được xuống biển, nữ nhân vốn bị coi là ô uế, hễ có mặt trên thuyền tất sẽ mang đến vận xui.

Nếu mò được nhiều ngọc, chất tốt, lợi lộc lớn, cả thôn có thể được miễn trừ thuế phú. Thế nhưng người làm nghề này lại chẳng có bao nhiêu.

Dân lặn bị coi như một hạng thấp kém trong tam giáo cửu lưu, suốt đời lao động cực khổ, không có cơ hội đọc sách, chẳng thể dự khoa cử, chẳng thể tùy ý kết thân với người nơi khác, thậm chí khoác lên mình bộ y phục mới cũng là việc xa xỉ vô cùng.

Thế nên mới nảy sinh bạo loạn.