“Áo đầm màu hồng nhạt, thắt bím, đeo một chiếc băng đô này vàng, còn mang đôi giày xăng đan màu vàng nhạt”, đầu óc bà lão vẫn còn minh mẫn, trả lời rất chi tiết.
Ngô Bình: “Đi bao lâu rồi, làm sao mà đi lạc?”
Bà cụ tự trách: “Khoảng mười phút trước, tôi dẫn cháu gái ra khỏi khách sạn, đến cửa hàng đối diện mua kem. Vừa ra khỏi cửa đã có một người phụ nữ hơn bốn mươi tuổi mặc đồ khá xuề xòa, cõng theo một đứa trẻ, trông có vẻ rất đáng thương. Cô ta nói mình không còn tiền, muốn xin tôi ít tiền. Tôi bèn lấy ví tiền ra định cho cô ta một tí nhưng đúng lúc này tôi lại ngửi được mùi hương thoang thoảng, sau đó thì hơi mơ màng. Tôi không còn nhớ chuyện xảy ra sau đó, đến khi tôi hoàn hồn lại, người phụ nữ đó và cháu gái tôi đã không thấy nữa”.
Nói đến đây bà lão lại lau nước mắt.
Ngô Bình hỏi: “Bà còn đồ hay thứ gì mà cháu bà hay mang theo bên người không?”
Bà lão vội lấy một kẹp tóc hoạt hình ra nói: “Đây là của cháu gái tôi”.
Ngô Bình nhận lấy rồi ngửi thử: “Bà cụ đợi ở đây nhé, cháu đi tìm cháu gái giúp bà”.
Mười phút thì chắc cô bé không đi xa được, anh hít sâu một hơi, ánh mắt dời sang bên trái, hướng đó còn vương hơi thở của cô bé.
Anh không dám rề rà, lập tức đuổi theo. Anh đi rất nhanh, không lâu sau đã vượt qua mấy ngã tư có đèn giao thông.
Được hơn ba cây số, anh rẽ vào một con ngõ nhỏ, ngõ trông khả cũ, hai bên là khu nhà ổ chuột dân cư, đường đi rất hẹp, dưới đất còn có nước vương vãi, một xóm nhỏ trong thành phố.
Anh đi thêm một đoạn về phía trước, phóng thần niệm tìm kiếm trong vòng mấy trăm mét. Cứ thế, anh nhanh chóng phát hiện ra một đứa bé đang bị trói trong một căn nhà của khu dân cư. Trong phòng còn có ba người đàn ông, họ đang nói gì đó, cô bé bị trói cả tay và chân, miệng bị bịt bằng băng keo dính, nằm trên sofa.
Ngô Bình không gõ cửa mà xuyên qua tường tới sân, đẩy cửa đi vào nhà.
Thấy có người xông vào, ba người đàn ông trong nhà ngạc nhiên nói: “Mày là ai?”
Ngô Bình nhìn cô bé, váy liền thân, giày xăng đan màu vàng, hai bím tóc… chính là đặc điểm của cháu gái mà bà cụ miêu tả.