Công Lược Tự Thân Của Công Chúa Điên Loạn

Chương 18: Đây vốn là chuyện tình yêu



Quản gia vâng dạ, rồi dặn thuộc hạ đi gọi thiếu gia dậy ra tiền sảnh tiếp khách quý.

Phân phó xong, quản gia lại quay về phòng. Vương Triều Ba bên trong cũng không nằm lại, mà mặc trung y ngồi bên giường, mặt đầy vẻ bực dọc.

Ông ta quả thật đen đủi, nhờ vả quan hệ, chạy chọt đút bạc cho người quen, xoay xở ở Lại bộ bao lâu, kết quả vẫn bị điều tới vùng địa giới thành Thiên Thủy.

Vậy cũng đành chịu, nhưng ở đây lại có thêm một Lạc Dương Công chúa.

Cuộc sống này, chẳng biết phải chịu khổ đến bao giờ mới xong.

"Con ả đó xưa nay hoang đường cực độ, hễ có chuyện không vừa ý là đánh gà chửi chó ngay trong thành Thiên Thủy. Mấy ngày trước còn lên cơn điên, bỏ trốn khỏi thành, liên lụy mấy thành xung quanh phải giới nghiêm, làm ta mất ngủ mấy đêm liền. May mà còn trở về nguyên vẹn hình hài, chứ nếu thật sự xảy ra chuyện, triều đình chỉ biết tội ta không xử lý tặc phỉ, còn nó thì chẳng hề hấn gì."

Dứt lời lại vỗ giường, giọng đầy căm hận nói: "Quyền quý, đúng là quyền quý!"

Quản gia biết mấy ngày nay lão gia nhà mình không nuốt trôi cục tức, liền lựa lời thiện ý nói vài câu xoa dịu rồi hỏi:

"Đại nhân, ngài nói xem, trời chưa sáng mà người của phủ Công chúa đã đến phủ chúng ta — là muốn làm gì vậy nhỉ?"

"Còn gì nữa?" Vương Triều Ba cười khẩy một tiếng. "Nó thì làm được gì? Chắc lại nhìn trúng cái gì hay ai, Huyện lệnh[1] của thành Thiên Thủy giả chết không dám đáp ứng nó, nên nó mới cho người tìm đến chỗ chúng ta."

[1] Huyện lệnh: quan đứng đầu một huyện, nắm toàn bộ quyền hành chính, tư pháp, quân sự trong phạm vi huyện đó, còn được gọi là Tri huyện.

Chẳng rõ đương kim Hoàng Thượng vì tình thân hay vì cân nhắc thanh danh của bản thân, nhưng tóm lại, hắn luôn vô cùng thiên vị chất nữ duy nhất này. Công khai có, ngấm ngầm cũng có, đều từng nhiều lần nhắc nhở đám quan địa phương bọn họ: chỉ cần Cố Quyệt không đòi hỏi quá đáng, cái gì chiều được thì cố mà chiều, còn chiều không được thì viết tấu dâng lên triều.

"Thôi thôi, ngươi đi chuẩn bị giấy mực cho ta, ta phải viết thêm tấu chương gửi lên." Vương Triều Ba nói.

"Đại nhân, tấu chương viết hai ngày trước, đoán chừng còn chưa đưa đến ngự tiền đâu......"

Vương Triều Ba trừng mắt: "Thì cũng phải viết!"

Viết được nửa chừng, nhi tử độc nhất của Vương Triều Ba – Vương Bách Tùng – bước vào. Vương Triều Ba vội hỏi:

"Người phủ Công chúa đến làm gì?"

Vương Bách Tùng thật thà thuật lại từng việc. Bỏ qua mấy lời vô nghĩa, việc mấu chốt chính là:

"Mấy hôm trước Điện hạ ra ngoài thành trông thấy ngoại thành có một bãi đất trống, muốn quây lại làm trường đua ngựa..."

Theo lý thì yêu cầu này cũng không quá đáng. Ba huyện quanh thành Thiên Thủy đều là đất phong của Lạc Dương Công chúa, nay nàng có muốn dựng trường đua thì cũng chẳng phải chuyện lớn.

"Chuyện vặt thế này mà Huyện lệnh của thành Thiên Thủy không tự chấp thuận được sao? Lại cứ phải để ả mò đến chỗ chúng ta?" Vương Triều Ba không nhịn được mà gắt lên.

Nhi tử của ông ta ngập ngừng:

"Là đã chấp thuận rồi, nhưng người của phủ Công chúa nói... nói phủ Quận thú của chúng ta nhiều ngựa, lại thiếu bãi. Điện hạ thấu hiểu, đặc biệt tới báo một tiếng, muốn giúp chúng ta nuôi ngựa......"

Câu chưa dứt, lão hồ ly lăn lộn quan trường nhiều năm vừa nghe đã hiểu, trong lòng thầm chửi ranh con giảo hoạt Cố Quyệt.

Này mà thấu hiểu thuộc hạ nỗi gì, rõ ràng là xây trường đua vừa thiếu ngựa vừa thiếu bạc, nên mới đi vòi vĩnh trắng trợn, vòi tới tận phủ Quận thú.

Vương Triều Ba hít sâu một hơi, hỏi thêm:

"Nó muốn bao nhiêu?"

"Mỗi năm hai vạn lượng..."

Vương Triều Ba suýt nữa nghẹt thở: "Bao, bao nhiêu!?"

Nuôi mấy con ngựa rách, chiếm một bãi đất, mà đòi hai vạn lượng một năm?!

Nếu chỉ vài trăm, một ngàn lượng, ông ta còn cắn răng nộp, coi như cái giá để tránh thứ ôn thần này.

Nhưng giờ Cố Quyệt há mồm nuốt sống, một lần đòi thẳng hai vạn lượng. Ông ta chỉ là một Quận thú, chứ đâu phải bá vương thổ phỉ, đi trộm đi cướp ở đâu ra để gom cho đủ con số đấy chứ?

Lửa giận bốc lên, Vương Triều Ba xé toạc bản tấu đang viết dở, lật tờ khác viết lại.

Lần này chuyện thật bày ra trước mắt, ngòi bút như gió cuốn, dạt dào trôi chảy, trong chốc lát đã kín bảy, tám trang giấy.

Văn chương tuôn trào, đầy rẫy những chuyện hoang đường của Cố Quyệt.

Buông bút, thổi khô mực, Vương Triều Ba giao tấu chương cho quản gia, sai hắn cưỡi ngựa hỏa tốc gửi về kinh.

Mà Cố Quyệt bên này thì tinh thần phơi phới, sáng vừa ngủ dậy đã dẫn một đám công tử tuấn tú trong phủ Công chúa ra ngoài thành cưỡi ngựa. Kết quả mới chạy được chừng mười dặm nàng đã chê gió cát lớn, liền ngang nhiên tháo luôn đình bát giác trên cô sơn phía tây thành, dời về dựng trong trường đua ở ngoại thành để nàng phơi nắng.

Nàng đúng là biết hưởng thụ, chỉ khổ cho Thẩm Liệm, vất vả lắm mới ra khỏi thành dạo mát ngắm cảnh một chuyến, mà ra đến nơi lại là một khoảng không.

"......Đỗ tỷ, không phải tỷ nói ở đây có đình bát giác sao?" Dạo này Thẩm Liệm bận chép sách, hay lui tới thư cục, mà đi lại nhiều lần cũng thành quen mặt với cả Đỗ Tử Duyệt hay tới nộp bản thảo.

Tính nàng vốn hay nói, lại tò mò chuyện viết thoại bản, lần nào gặp Đỗ Tử Duyệt cũng đều chào hỏi vô cùng nhiệt tình. Qua lại thường xuyên, hai người còn có thêm vài lần trò chuyện.

Hai ngày trước, Thẩm Liệm nghe Lưu A Nãi nhà bên bảo trên cô sơn đang tới mùa hoa mỹ nhân tiêu nở rộ, từng đóa từng đóa diễm lệ rực rỡ.

Rễ mỹ nhân tiêu có tác dụng thanh nhiệp trừ thấp, thư giãn gân cốt, hoạt huyết thông lạc. Thẩm Liệm chép sách lâu ngày, cổ tay thường xuyên cảm thấy không được linh hoạt, bèn tính lên núi đào ít rễ về chế thành thảo dược.

Lúc trò chuyện với Đỗ Tử Duyệt, đối phương lại vô tình nhắc tới đình bát giác, bảo rằng nhiều văn nhân tài tử ghé qua đều thích dừng chân đề thơ vịnh họa. Thẩm Liệm nghe vậy hứng chí, liền rủ Đỗ Tử Duyệt cùng đi.

Có lẽ vì khó từ chối thịnh tình, mà bản thân cũng chẳng mấy bằng hữu, nên Đỗ Tử Duyệt do dự một hồi rồi cũng đồng ý.

Thế là hai người hẹn nhau sáng sớm lên cô sơn phía tây thành dạo mát.

Nào ngờ tới nơi, hoa mỹ nhân tiêu thì bạt ngàn, nhưng đình bát giác thì tìm mãi chẳng thấy đâu.

Đỗ Tử Duyệt cũng khó hiểu:

"Năm ngoái ta tới, vẫn còn ở quanh đây mà."

Nói rồi lại tìm quanh một lượt, nhưng cái đình lớn như thế, lẽ ra liếc một cái là phải thấy rồi. Đình cũng đâu thể mọc chân chạy mất được chứ...

"Đừng tìm nữa, chắc bị người ta dẹp đi rồi." Thẩm Liệm ngồi xổm xuống, nhìn dấu bánh xe vẫn còn mới, nói với Đỗ Tử Duyệt. "Hằn sâu thế này, trục cũng rộng, dấu bánh còn phân ra mấy lằn, đoán chừng phải mấy cỗ xe tới ấy chứ."

Gỗ dựng đình thường vừa nặng vừa chắc, một xe chẳng chở nổi, phải dùng đến vài xe.

Nàng đứng dậy, nhìn khoảng đất trống xa xa:

"Chúng ta tới muộn rồi."

Đỗ Tử Duyệt cũng băn khoăn: "Ai rảnh mà vác cái đình đi làm gì nhỉ?"

Dứt lời nàng thở dài: "Muội đến muộn, không thấy được cái đình ấy. Đình xây lâu rồi, trông hơi tàn nhưng chắc chắn lắm, cao chừng hai tầng. Đứng trên đỉnh có thể nhìn được nửa thành Thiên Thủy đấy."

Có lẽ vì trời cao gió lộng, dễ gợi hứng thơ, nên văn nhân tài tử ghé ngang mới hay đề bút lưu chữ.

Thẩm Liệm xưa nay lại vốn thiết thực, chẳng hứng thú lắm với mấy trò phong nhã. Không thấy đình, nàng quay sang cầm cuốc đào hoa mỹ nhân tiêu, vừa đào vừa nói:

"Nếu không phải giờ đang đúng mùa mỹ nhân tiêu, hiệu thuốc đâu đâu cũng bán, chứ không thì ta đã đào nhiều hơn đem đi bán lấy tiền rồi."

Đỗ Tử Duyệt càng nghe càng kính nể cái sự ham tiền của Thẩm Liệm.

Cái gọi là người đọc sách, đọc là đọc sách thánh hiền, trọng là trọng danh dự tiết tháo. Kẻ sĩ thà chết đói còn hơn động tay vào gánh nước xuân[2], huống chi là việc thấp hèn như đào thuốc dại đem bán.

[2] Gánh nước xuân: Dùng để ẩn dụ cho công việc lao động tay chân tầm thường hoặc buôn bán nhỏ nhoi, việc không xứng thân phận.

Thậm chí cả những việc như chép sách, viết thoại bản cũng đều phải dùng bút danh, chỉ sợ bị người ngoài biết được thì sẽ ô uế phong cốt của người đọc sách.

Đỗ Tử Duyệt gia cảnh bần hàn, cũng không được lanh lợi, đi viết thoại bản lại chẳng biết phải cải trang, chỉ nhớ mỗi chuyện đổi tên.

Kết quả sách còn chưa kịp in, chuyện nàng viết thoại bản đã truyền khắp huyện. Các đồng môn lần lượt tuyệt giao, miệng mỉa nàng không biết quả nghĩa liêm sỉ.

Chẳng lý do nào khác, chỉ bởi nữ chính trong sách nàng viết cứ lưu luyến luẩn quẩn giữa vài nam nhân, khó lòng chọn được một.

Nàng lại cảm thấy đây vốn là chuyện tình yêu, tất nhiên phải cân nhắc kỹ càng. Thế nhưng người đời lại phán đó là biểu hiện của loại nữ tử nay đây mai đó, viết ra như vậy chẳng khác nào cổ súy nữ tử đứng núi này trông núi nọ.

Thẩm Liệm nghe xong, mắng thẳng:

"Vớ vẩn!"

Nam nhân tam thê tứ thiếp thì bảo đúng lẽ trời, nữ tử giao thiệp với mấy người lại thành đứng núi này trông núi nọ?

Cái lý ở đâu ra thế?

[Hết chương 18]