Thấy tôi còn chần chừ, lão Giang bỗng túm mạnh kéo tôi đứng dậy: “Có thứ gì đó đang tới gần, chạy mau!”
Nhờ câu nhắc tôi mới nhận ra trong đêm đang nổi lên những tiếng vo ve rền rền.
Nhìn ra thì thấy cả một đám côn trùng đỏ bay ập tới, dày đặc như cơn bão cát đỏ, ào ào lao về phía tượng đá Thao Thiết.
Tôi vội chạy bám sau lão Giang, gồng hết công xuất của chân mà chạy. Lúc đó chúng tôi không còn bận tâm người ta có phát hiện hay không — mạng sống là trên hết.
May mắn là bầy côn trùng đỏ không đuổi theo chúng tôi mà chỉ bay quẩn quanh tượng Thao Thiết, như đang canh giữ một thứ gì đó.
Khi đã men vào sâu trong Trấn Sấm và không còn thấy bóng dáng của đám côn trùng nữa, chúng tôi mới hạ thấp tốc độ, nhẹ nhàng lẻn về căn nhà công cộng. Có vẻ cả bọn bà lão mù và dân trong trấn đều e dè trước bọn côn trùng, trên dọc đường nhà nào cũng đóng chặt cửa.
Về đến nhà, lão Giang hỏi tôi: “Bọn côn trùng đó là gì?”
Tôi lắc đầu: “Tôi không biết, đây là lần đầu tôi thấy loại này.”
“Lần đầu?” lão Giang tỏ vẻ ngạc nhiên.
Tôi giải thích: “ Trấn Sấm cấm người sống đến gần bốn tượng đá trấn bên bờ đảo; chỉ có đội mai táng chuyên môn mới được phép chôn người c.h.ế.t ở đó. Hồi nhỏ tôi ham chơi, rủ Nhị Đản với Cẩu Tam ra đảo xem, nửa đường bị bắt về và bị cha mẹ đ.á.n.h mấy ngày, từ đó không dám bén mảng nữa.”
Lão Giang nhận xét: “Vậy là đây là lần đầu cậu nhìn thấy tượng quái đó cận cảnh?”
“Phải.” Tôi gật đầu, thoáng cau mày rồi nhớ lại: “À! Tôi còn nhớ lúc bị bố mẹ đ.á.n.h xong, họ còn dọa rằng có ‘ hổ núi ’ ở đó. Nếu tôi không ngoan, lỡ dại chạy lại thì hổ núi sẽ ăn thịt không còn xương luôn.”
Trước đây tôi nghĩ đó chỉ là trò dọa trẻ con, giờ nghĩ lại có lẽ không hẳn là đùa, có khả năng thật sự tồn tại thứ gì đó gọi là ‘ hổ núi ’.
Lớn lên ở Trấn Sấm nhưng tôi chẳng biết đến bao nhiêu bí mật nơi này. Lão Giang cũng thôi cười cợt, mặt ông trở nên nghiêm trọng. Ông nói theo quan sát của mình, đám người giả mạo trong trấn không hề tầm thường: họ ra tay tàn nhẫn, có tổ chức, kỷ luật chặt chẽ, không phải hạng giang hồ bình thường.
Chúng tôi tình thế hiện nay chỉ còn cách đóng vai du học sinh rồi tiếp tục đối phó với họ.
Ngay cả lão Giang — người thuộc dạng “Hắc Đao Kỳ Lân” cũng nói vậy, đủ thấy vấn đề không đơn giản như tôi nghĩ. Tôi lại nhớ tới khối thịt bị chặt xẻo vừa thấy, đầu óc rối bời.
Nhưng mai còn phải đấu trí đấu dũng với bọn họ, nên tôi và lão Giang lên giường, tranh thủ chợp mắt, cố gắng lấy sức cho ngày mai.
Vừa mới nằm lên giường, tôi phát hiện bên gối có một con mèo mập ú đang nằm ườn — chẳng biết nó lẻn về từ lúc nào.
Tôi đẩy Đại Hổ vào trong, bụng thì thầm chửi: “Ăn với ngủ, ngoài ra chẳng có ích lợi gì.”
Ai ngờ ngoài tôi và lão Giang, Đại Hổ cũng có chiến lợi phẩm!
Sáng hôm sau, lúc tôi chải lông cho nó, bất ngờ thấy trên móng vuốt sắc nhọn vướng một vật lấp lánh. Gỡ ra xem, hóa ra là một chiếc khuyên tai bằng bạc nguyên chất.
Khuyên này không phải hình hoa lá hay ngôi sao con gái hay đeo, mà là một con bọ cạp dữ tợn!
Đuôi bọ cạp cong vút lên, phần lưng ánh lên màu xanh thẫm kỳ dị, chế tác tinh xảo đến mức như thật.
“Tinh xảo thế này cơ à…” tôi không nhịn được khen, thậm chí còn khó tin chỉ là một chiếc khuyên tai nhỏ bé.
Lão Giang cũng cầm lên ngắm nghía, rồi ánh mắt lóe chút nghi hoặc: “Không phải cổ vật, mà là đồ thủ công hiện đại, nhưng được làm hoàn toàn bằng bạc, tay nghề cỡ bậc thầy. Loại này dân thường không bao giờ mua nổi.”
Chỉ tiếc Đại Hổ không biết nói, chẳng thể cho chúng tôi biết nó lượm ở đâu.
Trời vừa hửng sáng, bà lão mù đã “cốc cốc cốc” gõ cửa, con mắt còn lại ghé sát khe cửa dòm vào như muốn giám sát, cảnh tượng thật rợn người.
“Ai đó?” Tôi giả vờ ngáp dài, làm bộ như mới tỉnh ngủ.
“Tiểu thiếu gia Kinh Lam, dậy ăn cơm đi, mọi người đang đợi cậu.” Bà lão mù cười ngoài cửa.
Tôi vội giấu khuyên tai vào túi, dắt Đại Hổ cùng đi. Trên bàn cơm, ngoài bà lão mù, còn có gã cao gầy tôi gọi là “Tiểu Béo” hôm qua cùng cha mẹ hắn.
Bữa sáng chỉ có cháo loãng, nấm mộc nhĩ trộn và một đĩa cá nhỏ đặc sản sông Chương . Bà lão mù nói sáng sớm không kịp chuẩn bị, mong thông cảm.
Cha mẹ Tiểu Béo rất biết nói: “Nhìn Kinh Lam người ta kìa, du học nước ngoài hẳn hoi. Rồi nhìn lại con… haizz.”
Tôi làm bộ khiêm tốn, xổ vài câu tiếng Anh khiến họ ngẩn ra, Tiểu Béo lập tức nhờ tôi dạy mấy câu.
Ngay lúc đó, tôi để ý thấy trên tai phải của Tiểu Béo có một lỗ bấm!
Tôi kín đáo liếc mắt ra hiệu cho lão Giang, rồi vừa húp cháo vừa quan sát. Quả nhiên, tất cả mọi người trong phòng, kể cả bà lão mù đều có lỗ tai phải. Nhưng người Trấn Sấm vốn không bao giờ xỏ lỗ tai cả!
Chẳng lẽ chiếc khuyên tai hình bọ cạp kia chính là của bọn họ?
Lão Giang gắp cá nhỏ ăn, giả bộ thản nhiên hỏi: “Dạo này trấn có chuyện gì không? Đêm qua tôi nghe như có tiếng ca hát ầm ĩ, mất ngủ mấy lần.”
Mấy người thoáng liếc nhau vẻ căng thẳng hiện rõ, rồi lại chối phắt rằng không có, hỏi ngược chúng tôi nghe nhầm chăng.
Thấy chúng tôi không tin, bà lão mù bèn cười: “Chẳng phải tôi đã nói rồi sao, nửa đêm là lúc Long Vương tuần sông, người trong trấn không bao giờ dám ra ngoài.”
Con mắt hốc sâu trống rỗng của bà ta ngay cả ban ngày nhìn vào cũng lạnh cả sống lưng.
[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -
Tôi né ánh nhìn, Tiểu Béo lại nắm tay tôi, hỏi tôi còn nhớ chuyện ngày xưa không.
“Tất nhiên nhớ rồi.” Tôi cố tình gợi chuyện, cười: “Còn nhớ hồi nhỏ, lúc cha cậu xăm hình trên lưng, cậu khóc như con gái ấy.”
Mắt Tiểu Béo lập tức sáng lên, hắn hỏi tôi có nhớ câu mà trưởng trấn nói khi xăm hình cho bọn trẻ không.
Tôi làm bộ nghĩ ngợi: “Có nói à? Sao tôi không nhớ nhỉ?”
Hắn lại dò xét: “Thế cậu có nhớ Trấn Sấm có một bảo vật truyền đời, bảo vật đó có thể…”
Chưa kịp nói hết, bà lão mù bỗng ho khan, cúi nhặt đôi đũa rơi.
Khi tôi quay lại, Tiểu Béo đã im bặt.
Trong không khí chỉ còn giọng nói lạnh lẽo của bà lão mù: “Tiểu thiếu gia Kinh Lam, giày cậu bám nhiều bùn quá, lát nữa tôi sẽ cùng quản gia Giang rửa cho cậu.”
Tôi và lão Giang cùng cúi nhìn, mới thấy dưới đế giày dính đầy bùn đen tối qua từ chỗ tượng Thao Thiết!
“Xong rồi!” tôi thầm kêu.
May mà lão Giang ứng biến nhanh, lập tức xin lỗi: “Thiếu gia, lỗi tại tôi vội ngủ quên chưa thay giày sạch cho ngài. Hôm qua lúc cập bờ lỡ giẫm vào bùn lầy, mùi lại khó chịu.”
Tôi cười gượng, nói không sao, trong vali còn giày da, lát nữa đổi là được.
Bà lão mù nhìn tôi rồi nhìn lão Giang, tạm thời không nói thêm.
Tiểu Béo sau đó cũng không nhắc đến Trấn Sấm nữa, chỉ tiếp tục lôi tôi học tiếng Anh, rõ ràng đã bị bà lão cảnh cáo.
Cơm xong, tôi với lão Giang xin đi dạo quanh trấn, lấy cớ du học về chưa kịp thắp hương cho tổ tiên ở từ đường.
Tiểu Béo nhìn bà lão, bà ta gật đầu: “Có lòng hiếu thảo, nên làm thế.” Nhưng bà cũng muốn đi cùng.
Lời lão Giang nói hôm trước khiến tôi càng có cảm giác vào từ đường chẳng khác nào bước vào quan tài, mỗi bước đi lạnh buốt sau gáy như có hơi người thổi. Bà lão mù cười lạnh, tra chìa khóa vào cánh cửa đá đoạn long, rồi chậm rãi đẩy mở.
Tiếng kẽo kẹt vang vọng!
Hiện ra trước mắt là sân lớn trong từ đường, và cây cột đồng khổng lồ kỳ lạ.
Ban ngày nhìn rõ hơn hẳn, bề mặt đồng ánh sáng lạnh lấp lánh, trên đó khắc vô số hình người nhỏ xíu đang leo thang hướng lên trời. Cái thang ấy không thấy tận cùng,thanh đồng cao đến đâu thì cái thang cao đến đó. Không rõ ẩn chứa ý nghĩa gì…
Đi ngang qua cây cột đồng khổng lồ, lão Giang lại không kìm được muốn dừng chân nghiên cứu, tôi phải giật mạnh một cái, ra hiệu cho ông đừng lộ sơ hở.
“Đến rồi.”
Theo tiếng “két” của bản lề, bà lão mù đẩy cửa phòng trong, đập vào mắt tôi là một tấm biển gỗ đề bốn chữ “Phúc Hữu Tử Tôn”. Dưới biển là bàn thờ, trên bày kín từng tầng từng tầng bài vị, dày đặc những dòng chữ “Lý thị xxx chi vị”.
Chỉ có điều, tầng cao nhất lại trống trải một cách kỳ lạ.
Lẽ ra chỗ đó phải đặt vị tổ tiên lâu đời nhất mới đúng. Nhưng ở đó không phải bài vị, mà là một cái khung vuông vức, phủ kín bằng tấm vải đen, thoạt nhìn âm u quỷ dị.
Bà lão mù hỏi sao tôi và quản gia Giang không bước vào.
Tôi liền nói: “Bà quên rồi à, từ đường này chỉ có đàn ông nhà họ Lý mới được vào, quản gia Giang vốn là người ngoài làm gì có tư cách.”
Tôi vừa nói xong, bà ta cũng không tiện bước vào nữa.
Bà gượng cười: “Đúng là tôi hồ đồ rồi, mừng quá vì thiếu gia Kinh Lam về, đến cả quy củ cũng quên mất.”
Fl Bống Ngọc trên facebook/ tiktok để ủng hộ nhà dịch nha.
Cảm ơn mọi người rất nhiều ạ.❤️❤️❤️
Rồi bà đưa giỏ hương cho tôi.
Tôi lễ phép nhận lấy, cung cung kính kính quỳ trước bàn thờ dập ba lạy. Thực ra, tôi chẳng có mấy tình cảm với Trấn Sấm này, ngược lại còn mang theo một nỗi hận sâu. Bởi năm xưa, chính tại căn từ đường này, cha mẹ tôi bị người ta kéo vào, từ đó bặt vô âm tín, sống c.h.ế.t chẳng ai biết.
Thắp hương xong, tôi định xoay người đi ra.
Nào ngờ đúng lúc ấy, chẳng hiểu con mèo béo kia bị cái gì kích động, nó phóng vọt lên bàn thờ như một bóng đen.
“Đại Hổ, đừng có nghịch!” Tôi hoảng hốt vẫy tay gọi nhỏ.
Nhìn hàng hàng lớp lớp linh vị tổ tiên, mồ hôi lạnh trên trán tôi túa ra. Phải biết rằng, vị trí trên bàn thờ tuyệt đối không thể loạn, càng xa đời sau thì càng được đặt cao.
Thế mà Đại Hổ cứ thế leo thẳng một mạch lên tận tầng cao nhất, lại còn nhảy chồm tới, dán mắt vào thứ bị phủ vải đen kia, như thể muốn chọc thủng nó.
Tôi vội vàng xông lên bắt lấy, sợ nó gây ra họa lớn, liên lụy cả tôi và lão Giang.
Nhưng con mèo quá nhanh, nhảy vọt lên làm mép tấm vải đen bật tung một góc. Tấm vải nhanh chóng rơi xuống lại, che kín, nhưng khoảnh khắc ấy khiến toàn thân tôi lạnh buốt như vừa rơi vào hầm băng mùa đông.
Toàn thân run lẩy bẩy, nghẹn lời. Là kinh hoảng, là sợ hãi, hay là không thể tin nổi…
Tôi không thể miêu tả được cảm giác khi ấy. Bởi vì tôi đã trông thấy rõ ràng, thứ bị che giấu dưới tấm vải đen kia!