Khai Phá Cổ Mộ

Chương 7: Lời nguyền của đội quân đào mộ.



Thời gian từng phút từng giây trôi qua. Kim đồng hồ càng lúc càng gần điểm bảy giờ!!!

 

Nói thật, tôi đã căng thẳng đến mức như con chim bị cung tên dọa sợ, ngay cả tiếng nhỏ giọt trong hang cũng làm tôi tưởng như Huyết sát sắp lao tới.

 

Đột nhiên, tôi thấy lão Giang trên xà nhà đã rút nửa lưỡi Hắc Đao ra, còn Hạ Lan Tuyết – người vốn nhắm mắt dưỡng thần từ nãy đến giờ  bỗng chốc mở mắt ra.

 

Tôi biết ngay: Xong rồi, thứ quỷ quái kia đến rồi!

 

Quả nhiên, trong lối mộ vọng lại tiếng cười rợn người, khi gần khi xa, âm trầm ma mị, khiến da đầu tôi tê dại.

 

Tôi nhịn không nổi, ló nửa cái đầu ra, chỉ muốn nhìn xem “huyết sát” trong truyền thuyết rốt cuộc trông thế nào? Có giống với bức vẽ của Khổng Nhị Cẩu hay không?

 

Rồi tôi thấy giữa khe hở của hai cánh cửa mộ, từ từ ló ra một gương mặt nhọn hoắt, trắng bệch như giấy.

 

Gương mặt đó trơn nhẵn, không hề có mắt, vậy mà tôi vẫn cảm nhận được nó đang gắt gao nhìn chằm chằm vào mình. Còn tôi, cũng trợn to mắt nhìn thẳng lại nó.

 

Cứ thế giằng co mấy giây, cuối cùng tôi hét lên một tiếng thất thanh!

 

Lão Giang trên xà nhà lập tức quát nhắc: “Nó thấy cậu rồi! Chạy đi, chạy vào trong!”

 

Lúc đó tôi chẳng kịp nghĩ nhiều, đứng phắt dậy, cắm đầu bỏ chạy. Nhưng chạy được mấy bước lại thấy sai sai – đại mộ này vốn kín mít, chỉ có một lối vào, vậy tôi chạy vào đâu được nữa?

 

Ngoảnh lại thì thấy huyết sát đã bước hẳn vào trong, bàn chân giẫm lên  nếp phát ra tiếng xèo xèo như bị thiêu đốt. Ngay lúc đó, tôi hiểu ra tất cả.

 

Lão Giang giữ tôi ở dưới, chính là lấy tôi làm mồi nhử – dùng hơi thở người sống để dẫn dụ con quỷ này sa bẫy!

 

Lúc ấy tôi hận đến mức chỉ muốn văng hết những lời c.h.ử.i thô tục tích cóp hai mươi năm ra ngoài. Nhưng chưa kịp thì đã nghe tiếng lão Giang quát: “Nằm xuống!”

 

Nói thì chậm, nhưng hành động diễn ra cực nhanh. Lão Giang và Hạ Lan Tuyết đồng thời rút đao.

 

Chỉ thấy hai bóng người cắt chéo lướt sau lưng huyết sát. Trong khoảnh khắc ấy, gió như ngưng lại, ánh sáng cũng ngưng lại, thậm chí thời gian cũng ngưng lại.

 

Chỉ còn ánh đao sáng loáng vẽ thành hình chữ thập, như tia chớp x.é to.ạc bóng tối rạch mở lưng huyết sát.

 

Nhìn cảnh ấy, trong đầu tôi chỉ vang lên một câu thơ:



“Song đao giao cắt tuyết hoa binh, Chém nát giang thủy dòng Ô Tùng!”

 

Huyết sát gào lên t.h.ả.m thiết, từ vết thương sau lưng trào ra dòng dịch xác đỏ sẫm, hôi thối đến lợm giọng.

 

Nhưng đòn đ.á.n.h tưởng chí mạng này lại không g.i.ế.c được nó, ngược lại còn khiến sát khí của nó bùng nổ.

 

Để tránh gạo nếp  dưới đất, nó bỗng nhảy vụt lên nóc mộ, móng vuốt đỏ m.á.u mọc dài, ghim chặt vào đá. Cái đầu nó quái dị xoay ngược 180 độ, khóa chặt lấy tôi — trông chẳng khác nào một con thằn lằn trắng hếu bốn chân.

 

Tôi không hiểu vì sao nó cứ nhằm tôi mà đuổi. Bất kể tôi chạy hướng nào nó cũng nhảy theo. Móng vuốt cong như lưỡi câu sắc nhọn, thậm chí còn cào rạch trên đài tế đá ra năm rãnh sâu hoắm.

 

“Tính sao bây giờ?” Tôi hoảng loạn kêu lên.

 

Lão Giang và Hạ Lan Tuyết còn cách tôi một khoảng, hơn nữa tốc độ không thể bằng huyết sát, nên nhất thời không thể trông cậy vào họ.

 

“Thả mèo ra!” – Lão Giang hô lớn.

 

Tôi sực nhớ trên người còn con mèo kia, liền vội xé vải buộc trên miệng nó.

 

Quả lạ, con mèo tam thể lông vàng vằn này chẳng hề sợ hãi huyết sát, lông dựng ngược, gầm gừ dữ tợn như hổ xuống núi.

 

Tôi nhân cơ hội đứng dậy, định chạy về phía lão Giang.

 

“Chạy theo đường nếp! Đừng ngoái lại!” – Lão Giang gào to.

 

Nhưng nhắc nhở đã muộn, tôi vừa quay đầu thì mặt đã kề sát mặt huyết sát. Trong cơn mơ hồ, tôi cảm giác thân thể ngày một nhẹ bẫng, như hồn phách sắp bị kéo ra khỏi xác.

 

Rõ ràng mặt nó không có mắt, nhưng tôi lại nhìn thấy trong đó ẩn chứa ánh nhìn ma lực vô biên, lôi tôi về một thế giới khác… Mắt tôi dại đi, tứ chi không còn động đậy.

 

Ngay khi tôi tưởng mình sẽ thành con mồi, trong mộ thất bỗng vang lên một tiếng quát lanh lảnh, rồi tiếng “soạt” của kiếm rút khỏi vỏ.

 

Một thanh trường kiếm không chút do dự đ.â.m xuyên tim huyết sát — là Hạ Lan Tuyết!

 

Bà giữ nguyên tư thế quỳ một gối, một tay cầm kiếm, dung nhan lạnh lùng xen lẫn khí phách anh hùng. Vết thương nơi huyết sát bị đ.â.m lập tức bùng ra từng chùm lửa đen sì.

 

Nó càng giãy giụa, lửa cháy càng dữ, cho đến khi thân xác nó bị thiêu khô, hóa thành tro bụi.

 

Không uổng lão Giang nói kiếm của Hạ Lan Tuyết là khắc tinh của huyết sát. Đây chính là ý nghĩa của tên kiếm “Nghiệp Hỏa” – ngọn lửa địa ngục có thể thanh tẩy mọi linh hồn trong điển tịch Phật giáo.

 

Giải quyết xong huyết sát, cuối cùng chúng tôi mới dám thở phào  tiến hành mở quan tài chính!

 

Mặc dù cỗ quan tài kia treo lơ lửng trên không, nhưng không làm khó được ba người chúng tôi. Tôi đo khoảng cách, rồi dùng dây thừng làm ròng rọc, chẳng mấy chốc đã hạ nó xuống.

 

Mặt trước quan tài hình thoi, khắc một hàng cổ tự: “Mộ nghịch thần Ôn Thao…”

 

Tôi sững người, kinh hãi thốt lên: “Thì ra là Ôn Thao!”

 

Ai mà ngờ, ngay tại cái thôn hẻo lánh heo hút ở Túy Thủy Tây Phúc Kiến, lại tìm được phần mộ của một đại vương trộm mộ lừng danh lịch sử.

 

Tương truyền, Ôn Thao là một “Quỷ tướng” thời Ngũ Đại Thập Quốc.

 

Người đời gọi ông ta là quỷ tướng, bởi bất kể đ.á.n.h trận hay xử sự, đều toát ra một luồng khí quỷ quái.

 

Có lần, ông ta dẫn đội quân đào mộ – “Quân đào tử” chỉ trong một ngày một đêm đã tiến vào Lạc Dương, cứu nguy cho Hoàng đế lúc bấy giờ, được phong làm Dị vương.

 

Hơn nữa, đội quân của ông ta chưa từng nhận quân lương hay lương thực do triều đình cấp, chỉ hành quân vào ban đêm. Đôi khi người qua đường còn nhìn thấy đội quân này khiêng quan tài, rải tiền giấy, vừa nhảy múa vừa tiến lên, hệt như âm binh áp trận, khiến kẻ địch chưa đ.á.n.h đã khiếp vía bỏ chạy.

 

Sự thật là Ôn Thao  xuất thân là một tên trộm mộ, thủ hạ cũng toàn là dân lưu vong, vì thế “quân đào tử” mỗi khi đến đâu đều đào sạch các mộ lớn mộ nhỏ ở địa phương, lấy hết của báu chia nhau.

 

Nhưng các hoàng đế đều làm ngơ, nhắm một mắt mở một mắt – dù sao có vị tướng không cần lĩnh lương, ai lại không thích?

 

Tiếc rằng, một ngày kia Ôn Thao đột nhiên lâm bệnh qua đời. Hoàng đế đích thân tổ chức lễ tang long trọng cho ông ta, và chính sử cũng chỉ ghi chép đến đây.

 

Thế nhưng Ôn Thao rốt cuộc mắc bệnh gì? Sau khi ông ta chết, đội “quân đào tử” biến đi đâu? Tất cả đều là bí ẩn.

 

Nghe tôi kể xong, lão Giang không nói gì.

 

Ngôi mộ trước mắt đầy mâu thuẫn. Một đại tướng được phong vương, c.h.ế.t lại không được chôn ở Đông Đô Lạc Dương mà bị đưa tới vùng đất hoang vu này… Trên bia còn khắc “nghịch thần”, quan tài lại bị phong ấn rốt cuộc là mối thù sâu cỡ nào?

[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -

 

Nhưng tôi có một linh cảm mạnh mẽ: chỉ cần mở quan tài, tất cả bí ẩn sẽ được giải.

 

Tôi liếc nhìn lão Giang.

 

Lão Giang trầm mặc một lúc rồi nói: “Mở đi!”

 

Thế là tôi và lão Giang lấy đục và các dụng cụ khác, theo khe nắp quan tài mà nạy từng chút một.

 

Ai ngờ g.i.ế.c một con huyết sát mất mười mấy phút, mà cạy cái quan tài này lại mất gần một tiếng.

 

Vì quan tài bị đóng tới hai mươi tám chiếc đinh sắt, khi nhổ hết đinh ra, tôi đã mồ hôi nhễ nhại.

 

“ Tứ muội, coi chừng! Đây là ‘Hai mươi tám tinh tú trấn hồn đinh.’”

 

Fl Bống Ngọc trên facebook/ tiktok để ủng hộ nhà dịch nha.
Cảm ơn mọi người rất nhiều ạ.❤️❤️❤️

Lão Giang nói: “Người thiết kế ngôi mộ này muốn biến người c.h.ế.t thành huyết sát, vĩnh viễn không được siêu sinh.”

 

“Chỉ là lũ lụt ở Túy Thủy khiến mọi thứ rối tung, dẫn tới người biến thành huyết sát trước lại chính là người vợ được chôn theo.”

 

Lại là phong ấn!

 

Tôi hỏi: “Vậy quan tài này giờ có an toàn không?”

 

“Không vấn đề gì lớn, nhưng có Tứ muội vẫn yên tâm hơn.”

 

Lão Giang vừa nói vừa ra hiệu tôi phụ đẩy nắp quan tài, còn Hạ Lan Tuyết chỉ đứng chắn kiếm bên cạnh, mắt lộ sát khí.

 

Mở quan tài ra, những biến cố chúng tôi dự đoán không hề xảy ra. Bên trong chỉ có một bộ hài cốt khô quắt, khuôn mặt dữ tợn, miệng há to như lúc c.h.ế.t đã chịu nỗi tuyệt vọng và tra tấn khủng khiếp.

 

Trên mặt trong của nắp quan tài chi chít từng hàng chữ máu, như lời nguyền cái c.h.ế.t vọng lại từ ngàn năm!

 

Nhìn thấy giữa chữ m.á.u còn xen những vết cào, tôi lập tức hiểu ra. Bộ hài cốt này  chính là Ôn Thao – không phải c.h.ế.t bệnh bình thường, mà bị đóng đinh trong quan tài đến c.h.ế.t ngạt.

 

Tôi đưa tay vuốt những dòng chữ máu, một bí mật phong kín dần mở ra…

 

Thì ra cuối đời, Ôn Thao tình cờ tìm được một quyển sách cổ ghi chép về một ngôi mộ kinh thiên động địa. Đối với một kẻ trộm mộ như ông, đây chẳng khác nào thử thách lớn nhất đời mình!

 

Nhưng khi dẫn theo một vạn “quân đào tử” xuất phát, ông ta cũng gặp thất bại lớn nhất đời.

 

Chữ m.á.u không nói rõ họ đã gặp chuyện gì, chỉ nói rằng họ vướng phải một lời nguyền từ cõi âm, “quân đào tử” c.h.ế.t hàng nghìn, bản thân Ôn Thao cũng ngã bệnh.

 

Nhưng càng như vậy, ngôi mộ kia lại càng có sức mê hoặc c.h.ế.t người đối với ông ta!

 

Vì thế, ông bỏ cả ngôi vương dị tộc, suốt ngày ở nhà nghiên cứu cách phá lời nguyền, mong lần thứ hai xuống mộ.

 

Nhưng tin đồn truyền đến tai hoàng đế, biến thành Ôn Thao đang âm mưu phản nghịch.

 

Để tránh nghi kỵ, Ôn Thao giả vờ bệnh chết, hy vọng thoát khỏi Lạc Dương.

 

Mà tất cả đã bị hoàng đế nắm rõ. Hoàng đế đích thân chủ trì tang lễ, đóng chặt quan tài Ôn Thao, chôn ở vùng đất hoang ở phía Tây Phúc Kiến khiến cho kẻ phản bội mình vĩnh viễn không được siêu sinh!

 

Ở cuối chữ máu, Ôn Thao nguyền rủa độc ác, muốn cho Hậu Đường diệt vong chỉ sau hai đời.

 

Ông còn nói sách cổ vô danh ấy ở trong chiếc hộp đồng theo mình, trong đó có ghi chép chi tiết kinh nghiệm trộm mộ, hy vọng hậu nhân có duyên đến đây có thể hoàn thành tâm nguyện, lần thứ hai xuống “Âm Khư”.

 

“Cậu nói ngôi mộ kia tên gì?” – Lão Giang kinh ngạc hỏi.

 

“Âm Khư chứ gì.” – Tôi đáp.

 

Điều lạ là, trước đó bao nhiêu chuyện ly kỳ về Ôn Thao cũng không làm lão Giang mảy may hứng thú.

 

Nhưng chỉ cần nghe hai chữ “Âm Khư”, sắc mặt ông ta liền thay đổi, ngay cả Hạ Lan Tuyết phía sau cũng thoáng hiện nét kỳ dị.

 

Dù tôi hỏi thế nào, lão Giang vẫn không chịu nói. Ông chỉ lặp lại một câu: “Nhóc, không nói cho cậu là vì muốn tốt cho cậu.”

 

Bất đắc dĩ, tôi đành nhìn sang chiếc hộp đồng trong tay bộ hài cốt. Chiếc hộp đồng hình vuông, mỗi mặt đều khắc hoa văn tinh xảo, nhưng hoa văn mỗi mặt đều rối loạn, như một khối rubik chờ được xếp lại.

 

Không hiểu sao, những hoa văn hỗn loạn đó lại cho tôi một cảm giác quen thuộc, như đã từng thấy ở đâu.

 

“Đừng chạm vào!”

 

Tôi vô thức đưa tay chạm, lão Giang hét lên: “Đây là hộp cơ quan hiếm có, chỉ cần sai một bước sẽ phá hỏng thứ bên trong.”

 

Khi lão Giang cẩn thận chuẩn bị nâng hộp đồng lên, không kìm được c.h.ử.i thề. Bởi vì chỉ cần di chuyển nhẹ, hoa văn rối trên hộp sẽ dịch chuyển theo. Quả nhiên Ôn Thao xứng danh vua trộm mộ, điều này đồng nghĩa ý định mang hộp về để tập hợp sức mạnh “Kỳ Lân” giải mã đã tiêu tan.

 

Hoặc là mở ngay tại chỗ, hoặc là quay về tay trắng.

 

“Xem ra trên đời này còn có cơ quan mà tôi cũng không mở nổi…” – Lão Giang than thở.

 

Sau đó ông nhìn sang Hạ Lan Tuyết cầu cứu, bà cũng lắc đầu.

 

Bởi chỉ có một cơ hội, ai cũng không dám liều!

 

Còn lúc này cảm giác quen thuộc trong lòng tôi càng lúc càng mạnh, chiếc hộp đồng ấy như đã chờ đợi ngàn năm, chỉ để đợi tôi đến mở nó.

 

“Có lẽ… để tôi thử xem.”

 

Tôi buột miệng nói ra mà chính mình cũng không hiểu vì sao.

 

“Cậu?” – cả lão Giang và Hạ Lan Tuyết đều nhìn tôi với ánh mắt khó tin. Trong mắt họ, tôi chẳng qua chỉ là một sinh viên khảo cổ mới vào nghề, chẳng có gì đặc biệt.

 

Không chờ họ đồng ý, tôi đã đưa tay bắt đầu làm. Nhờ vào trực giác và khả năng cảm nhận kỳ lạ, chỉ mất năm phút tôi đã mở được chiếc hộp tưởng chừng không thể phá giải này.

 

Thì ra trên sáu mặt của hộp đồng đều khắc hình những con quái thú trong truyền thuyết. Mỗi mặt một con: hỗn độn, cùng kỳ, đào ngột, tham ăn, uổng tượng, Vu Chi Kì… tất cả đều là hung thú nổi tiếng trong Sơn hải kinh. Chúng quấn quanh

nhau, tạo thành vòng tròn bao quanh một con mắt khổng lồ kỳ dị ở chính giữa.

 

Điều không ngờ tới đã xảy ra  khi tôi khớp đúng, chỉ nghe một tiếng “cạch”,

chiếc hộp tách làm đôi.

 

Một lớp bụi xám tung ra, bên trong lộ ra một xấp giấy da dê dày cộp. Nó… thật sự mở ra rồi!

 

“Nhóc con, cậu làm thế nào vậy?” – ánh mắt lão Giang nhìn tôi cứ như nhìn một con quái vật.

 

Tôi chỉ biết cười khổ: “Nếu tôi nói mấy hoa văn trên chiếc hộp này… đều y hệt hình xăm trên lưng tôi, ông có tin không?”