Về đến nhà, tôi mở quyển sách ra.
Phát hiện bên trong kẹp sẵn hai trăm tệ.
Đêm hôm ấy.
Tôi và chị Hương Liễu nằm trên giường tre ngoài sân, tay nắm c.h.ặ.t t.a.y nhau.
Trăng bị mây đen che khuất, sao cũng thưa thớt.
Chị siết lấy tay tôi, nói kiên định:
“Không sao đâu, học trường cấp hai ở thị trấn cũng được, vậy là hai đứa mình có thể làm bạn cùng nhau.”
“Trinh Trinh, em là vàng thì ở đâu cũng tỏa sáng. Không được từ bỏ!”
Mấy bà trong làng thì xì xào bàn tán:
“Trinh Trinh, tụi con gái trong làng đều học trường thị trấn, chỉ có mày bày vẽ!”
“Con gái học làm gì nhiều, sau cũng chỉ để lấy chồng thôi.”
“Trường tư mắc cắt cổ, toàn lừa mấy kẻ ngu! May mà bố mẹ mày không dại!”
…
Cuối cùng, tôi vẫn học cấp hai ở thị trấn.
Chị Hương Liễu học lớp 9, tôi học lớp 7.
Ngày nào cũng cùng đi học, tan học cùng nhau.
Khi tôi có kinh nguyệt, chính chị dạy tôi cách xử lý.
Lót thêm vài tờ giấy lót trên bề mặt băng vệ sinh để dùng được lâu hơn, tiết kiệm tiền.
Tôi bắt đầu dậy thì, cũng là chị dắt tôi đi mua áo lót trẻ em.
Bác Bảy thỉnh thoảng lại mò tới tìm chị Hương Liễu, mắng chửi:
“Đồ con hoang, có nhà không về!”
Có lần hắn say khướt, ôm chặt lấy tôi:
“Mày cướp con gái tao đi, vậy mày làm con tao luôn đi!”
Chị Hương Liễu phát điên thật sự.
Chị lao ra từ bếp, mắt đỏ ngầu, cầm d.a.o bếp hét lớn:
“Ông đối xử với tôi sao cũng được, nhưng ông mà không buông Trinh Trinh ra, tôi g.i.ế.c ông! Tôi g.i.ế.c ông đó!”
Chị c.h.é.m vào tay ông ta, m.á.u văng ra.
Bác Bảy bị dọa chạy mất.
Tôi ngã quỵ dưới đất.
Trong khoảnh khắc ấy, tôi hiểu ra rất nhiều điều.
Hiểu vì sao chị lại ghét bác Bảy đến vậy.
Hiểu vì sao chị biết núi có sói.
Hiểu vì sao chị thà sống với tôi cũng không về nhà.
Hai đứa ôm nhau khóc nức nở.
Tiếng khóc vang vọng cả rừng núi.
Sáng hôm sau, trong làng lại đầy lời đồn: “Nó điên rồi, lại phát bệnh nữa kìa!”
Mấy ông bà già nhao nhao chỉ trích:
“Dù sao cũng là cha ruột, mày động d.a.o động kiếm với cha mày là mày bất hiếu!”
“Thiên hạ không có cha mẹ nào là sai cả!”
“Trinh Trinh, mày cứ chơi với nó, sớm muộn cũng bị nó làm hư!”
…
Lúc đó chúng tôi còn quá nhỏ.
Lòng tự trọng còn mong manh, không biết làm sao để phản bác sự thật bị bóp méo ấy.
Chỉ thấy tức giận và ngạt thở.
Từ giây phút ấy, tôi càng quyết tâm hơn: Tôi phải trốn khỏi nơi này.
Tôi phải thoát khỏi ngôi làng nuốt sống con người này, khỏi những kẻ luôn đứng trên đỉnh đạo đức để phán xét nỗi đau người khác.
Tôi và chị Hương Liễu ngày đêm cắm đầu vào học.
Không ngờ hiệu trưởng trường Thành Bắc sau đó lại đều đặn nhờ người gửi tài liệu ôn luyện nội bộ cho chúng tôi.
Tôi chưa bao giờ giữ riêng.
Đều giao lại cho thầy cô, nếu bạn nào cần thì thầy cô có thể sao in phát cho họ.
Nhưng thật tiếc, người thực sự cần lại rất ít.
[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -
Lớn lên rồi tôi mới hiểu: đa số người trên đời chỉ sống mù mờ qua ngày.
Biết rõ mục tiêu cuộc đời và cố gắng vì nó, đã là cực kỳ hiếm hoi.
Kết quả học tập của tôi vẫn ổn định.
Chị Hương Liễu thì lúc lên lúc xuống, dù vậy với năng lực của chị, hoàn toàn đủ sức thi vào Nhất Trung.
Nhưng dây yếu luôn đứt ở chỗ mỏng nhất.
Kết quả kỳ thi trung học phổ thông công bố, chị chỉ thiếu hai điểm để đỗ Nhất Trung.
Hai điểm thôi.
Chỉ một câu trắc nghiệm, một công thức thuộc lòng, một câu thơ cần điền… là đủ bù lại.
Ánh sáng trong mắt chị lụi tắt.
Bác Bảy thì hớn hở:
“Tao đã bảo nó thi không nổi mà nó không tin! Nó vốn chẳng phải đứa có số học hành. Mà kể cả có đỗ Nhất Trung, tao cũng chẳng cho nó học tiếp đâu!”
…
Tôi ôm chặt lấy chị, khóc nức nở:
“Không sao đâu! Không sao hết! Mình học lại lớp 9, trường sẽ đồng ý cho chị học lại mà!”
Lúc đó quản lý chưa gắt, học lại lớp 9 vẫn được.
Thành tích chị tốt, học lại một năm chắc chắn đậu Nhất Trung, trường cũng được tiếng.
Nhưng bác Bảy không cho chị cơ hội ấy.
Lợi dụng lúc chị về nhà lấy đồ, ông ta nhốt chị trong nhà.
Rồi nhận sáu vạn đồng sính lễ từ một người câm điếc ở làng bên, định gả chị đi.
Tôi cầu xin bác tha cho chị Hương Liễu, kết quả bị ông ta dùng gậy đuổi đánh, hét lên:
“Tao đã cầm tiền rồi, gả thì phải gả! Tao một tay nuôi nó lớn, giờ là lúc nó phải trả tao!”
Tôi đi cầu cứu dân làng.
Ai cũng lắc đầu: “Có là quan cũng không xử được chuyện nhà người ta đâu con ơi!”
Chỉ có cô Mạnh và trưởng thôn lên tiếng can ngăn.
Nhưng cũng bị bác Bảy mắng té tát:
“Con gái tao, tao gả, mắc gì tụi bay lo? Trừ khi tụi bay đưa tao sáu vạn, tao mới tặng con nhỏ cho tụi bay đó!”
Qua cửa sổ, chị Hương Liễu khóc ròng, liên tục lắc đầu với tôi:
“Trinh Trinh… thôi, thôi đi… Chắc… đây là số phận của chị rồi…”
Không!
Tôi không thể chấp nhận được!
Tôi không tin cái gọi là số phận khốn nạn đó!
Chị từng vì tôi mà liều mình phá núi mở đường.
Tôi nhất định cũng sẽ vì chị mà xé cỏ vạch lau, đưa chị thoát khỏi nơi này.
Sợ đêm dài lắm mộng, bác Bảy quyết định tổ chức đám cưới sau năm ngày.
Tôi không ngủ, không nghỉ, canh chừng suốt mấy hôm.
Hai ngày trước hôn lễ, lão trưởng thôn cùng ông ba, ông chín đến nhà bác Bảy uống rượu.
Uống đến tận nửa đêm, bác Bảy say khướt, ngáy như sấm.
Tôi lén lút mò đến nhà ông ta, rút chiếc búa mang theo, gom hết sức bình sinh, bắt đầu đập thanh sắt chắn cửa sổ phòng chị Hương Liễu.
Chị giật lấy búa: “Đưa chị!”
Vừa đập cong một chút, tiếng ngáy đột nhiên ngừng.
Bác Bảy gầm lên: “Con khốn, mày đi đâu hả!”
Tôi lạnh cả sống lưng, siết c.h.ặ.t t.a.y chị không buông.
May mà vài giây sau, tiếng ngáy lại vang lên.
Chị Hương Liễu lập tức tiếp tục.
Thanh sắt cuối cùng cũng bị bẻ cong.
Chị chui ra được.
Trời không trăng, cũng không sao.
Chúng tôi cắm đầu chạy trên con đường lát đá.
Chó của cả làng bị đánh thức, tiếng sủa vang dội khắp xóm.
Lúc chạy ngang nhà cô Mạnh, bà hé cửa nhìn thấy chúng tôi.
Bên trong có người hỏi vọng ra: “Có trộm hả?”
Cô Mạnh ngáp một cái: “Không, không ai cả.”