Ta thật sự không thể chịu nổi cảnh rối ren ấy, bèn xin được giáng cấp xuống địa phương rèn luyện. Thái tử đã sắp đặt nơi ta đến, trước lúc chia tay, ngài nắm c.h.ặ.t t.a.y ta, nói: “Ngươi đợi ta, tuyệt đối đừng để mất đi nhuệ khí. Ta nhất định sẽ triệu ngươi trở về!”
Tuy thời gian ta ở bên ngài không dài nhưng đã cùng nhau trải qua những ngày tháng tăm tối nhất, tình cảm đã gắn bó sâu đậm. Ta tin rằng rồi sẽ có một ngày, ngài nhất định thực hiện được lý tưởng của mình, mà ta cũng có sự kiên định của riêng ta.
Ta gửi cho Minh Hi một phong thư, trong lòng ôm chút hy vọng xa vời rằng trước lúc rời đi có thể gặp nàng một lần. Thế nhưng ta đã chờ ở cổng thành suốt nửa ngày, phụ mẫu đều đứng ngóng trông đến sốt ruột, nàng vẫn không xuất hiện. Cuối cùng ta uể oải rời đi. Còn hy vọng xa vời gì nữa chứ? Một khi ta đã rời đi, không biết tháng nào năm nào mới có thể quay lại kinh thành. Ta đã để lỡ Minh Hi quá nhiều năm, lời hứa cũng chẳng thể thực hiện được, thật sự không còn mặt mũi nào để gặp lại nàng.
Nơi ta bị giáng cấp tới là huyện Bình Tây, quận Chấn Giang, làm chức Tri châu. Nơi này thuộc địa phận của Trấn Giang vương, lại còn là vùng quân đội kiểm soát hỗn loạn bậc nhất. Ta cố ý xin được giáng cấp về đây, chính là muốn tự mình nhìn thấu lý do vì sao cuộc cải cách kiểm soát quân đội trước kia thất bại, ngã xuống ở đâu thì phải đứng dậy ở đó.
Ta tin rằng, chỉ cần có thời gian, nhất định ta sẽ lập ra được một loạt chính sách cải cách khả thi.
Huyện Bình Tây vốn hẻo lánh, gió cát hoang tàn, lưu dân tản mác khắp nơi, thổ phỉ hoành hành. Quan phủ nhiều lần cấm đoán mà vẫn không dẹp yên nổi, quả thật khiến người ta đau đầu. Ta vừa mới nhậm chức, tuổi lại còn quá trẻ, bọn thổ quan địa phương dù ngoài mặt nịnh hót nhưng trong bóng tối vẫn không phục, chẳng chịu hợp tác.
Đúng lúc ta còn đang tính toán sẽ tung quyền cước làm nên chuyện ở Bình Tây, từ kinh thành xa xôi lại đột nhiên có một đoàn xe tìm đến, được quan lại địa phương dẫn đường, đi thẳng tới cửa nhà ta.
Khi Minh Hi đội mũ có rèm, được đỡ từ trên xe ngựa xuống, ta chỉ cảm thấy như đang ở trong giấc mơ. Mãi đến khi Minh Hi mỉm cười bước đến trước mặt ta, dịu dàng nói:
“Đất phong cùng công việc trong phủ đều cần phải sắp xếp[chu toàn, lại thêm đường xa đi chậm, vì thế mới trễ mất hơn một tháng. Làm chàng sốt ruột rồi.”
Ta ôm Minh Hi xoay một vòng ngay tại chỗ, quả thực không dám tin tất cả đều là sự thật. Minh Hi đã buông bỏ sự an nhàn, tôn quý nơi kinh thành, theo ta đến nơi biên cương xa xôi chịu khổ, lại còn không có danh phận chính thức gì. Trong khoảnh khắc ấy, ta cảm thấy nàng vì ta mà trả giá tất cả, còn ta lại không báo đáp nổi một phần mười, ta chỉ có thể dùng phần đời còn lại của mình để yêu thương nàng.
Chúng ta sống cùng nhau ở Bình Tây suốt năm năm. Đó chính là quãng đời hạnh phúc nhất của đôi ta. Không có Công chúa, không có Chu thị lang, chỉ có một cặp phu thê bình thường, yêu nhau tha thiết, nương tựa nhau lúc hoạn nạn, sống bên nhau bền chặt như keo sơn.
Năm năm sau, Thái tử đăng cơ. Khi ấy ta đã được thăng làm quận thủ Chấn Giang, trong toàn bộ quận châu bọn thổ phỉ đã bị quét sạch, cải cách quân đội cũng bước đầu thấy được hiệu quả. Ta đang định đem kinh nghiệm thực tiễn này áp dụng cho các châu quận trong cả nước thì Thái tử, à không, lúc này đã là Hoàng đế, đã gửi chiếu thư triệu ta hồi kinh. Ta cố nài nỉ cầu xin, mong được sang hai châu lân cận là Định Châu và Thanh Châu để giám sát việc thi hành chế độ quân điền. Hoàng đế bất đắc dĩ đồng ý. Thế là ta lại quản lý hai châu quận suốt ba năm..
Tính ra, ta đã rời xa kinh thành hơn tám năm. Suốt những năm tháng đó, ta cùng Minh Hi sống tự do vui sướng, yêu thương bên nhau, sinh được hai trai một gái. Cuộc đời ta như thế đã quá đủ mãn nguyện.
7
Sở Nguyên năm thứ năm mươi sáu, Hoàng thượng lại một lần nữa ban chiếu triệu ta về kinh, thăng nhiệm ta làm Hộ bộ thượng thư, hạ chỉ cho cả nước thi hành chính sách cải cách quân điền.
Cùng năm đó, Hoàng đế phán định tứ hôn cho ta cùng Minh Hi, cuối cùng ta mới có thể trao cho nàng danh phận rõ ràng.
Do trái với tổ chế, Phò mã vốn không được đảm nhận chức vụ có thực quyền, có nhiều ngôn quan dâng sớ phản đối nhưng đều bị Hoàng đế bác bỏ, ngài còn nói, kẻ nào dám bới lông tìm vết, lập tức ném ra biên ải làm huyện lệnh tám năm rồi mới được trở lại.
Sở Nguyên năm thứ sáu mươi, ta thăng làm Thừa tướng nội các, từ đó thống lĩnh chính sự gần hai mươi năm, cùng Hoàng thượng kề vai cộng sự một đời, cuối cùng thực hiện được tâm nguyện năm đó, khai sáng thái bình thịnh thế.
Thế nhân thường ngợi khen ta đối với Minh Hi toàn tâm toàn ý, rằng ta là tình lang hiếm có trên đời. Nhưng chỉ có ta hiểu rõ, ta đối nàng hết lòng, vẫn chẳng sánh bằng một phần mười tình ý nàng dành cho ta. Cả đời này, được gặp Minh Hi, thật là chuyện may mắn nhất đời ta. Chỉ là nàng vẫn thường nói, nếu không có ta, có lẽ nàng đã chẳng còn sống nổi.
Khi nàng kể lại chuyện năm mười ba tuổi, ta không cho nàng hái một cành mẫu đơn, trong lòng ta vô cùng hổ thẹn.
Hôm sau ta liền cho người trồng cả một vườn mẫu đơn, dịu dàng xin lỗi Minh Hi: “Cứ hái đi, hái bao nhiêu cũng được. Nghiền nát hay giẫm đạp, tất cả đều là của nàng.”
Chỉ trách khi xưa ta cố làm bộ dáng công tử thanh nhã, nói ra những lời như: “Không thích thì đừng chạm vào. Hãy để lại cho người thật sự yêu nó.” Lời ấy khiến ta thành hòa thượng ba năm, cũng khiến ta cùng Minh Hi suýt bỏ lỡ duyên phận. Mỗi lần nghĩ lại, trong lòng ta đều hối hận đến muốn chết.
Năm Sở Nguyên thứ tám mươi, ta dâng tấu xin cáo lão hồi hương, Hoàng đế tìm đủ cách giữ lại nhưng cuối cùng cũng phải chấp thuận. Cả đời này ta đã tận trung vì nước, phần thời gian còn lại ta chỉ muốn cùng Minh Hi chậm rãi đi hết.
Ta viết một bộ hí kịch, đem chuyện xưa của ta và Minh Hi gửi cho gánh hát trong kinh thành diễn lại. Bởi ta nghĩ, một nữ tử tuyệt thế vô song như Minh Hi, sao có thể chỉ một mình ta được ngắm nhìn? Ta muốn nhiều người biết đến nàng, để bọn họ hâm mộ ta mới phải.
Vở kịch ấy mở đầu bằng mấy câu:
Trần thế ba ngàn, ta chỉ yêu ba điều,
Nhật, Nguyệt cùng nàng.
Nhật là bình minh,
Nguyệt là hoàng hôn,
Nàng là sớm sớm chiều chiều