Những Năm Tháng Tôi Làm Âm Dương Sư

Chương 3: Lưu tiên sinh



Ông tôi liền kể lại toàn bộ sự việc từ đầu đến cuối cho vợ của Lưu tiên sinh nghe.

Nghe xong, bà ấy cũng rất kinh hãi — dù sống với "Túy Quỷ Lưu" lâu năm, cũng đã quen biết chút ít về những chuyện kỳ dị ma quái như vậy, nhưng vẫn không khỏi giật mình.

Ông tôi thở dài, nói:

“Lần này thật sự là chuyện tà môn rồi…Đại ca còn chưa tỉnh, tôi sợ tối nay… Chị dâu, chị nói xem… Ôi, nghiệp chướng mà…”

Nói xong, ông cúi đầu xuống, hai tay cứ vò vào nhau mãi, đầy sốt ruột và bất lực.

Vợ Lưu tiên sinh biết ngay chuyện không đơn giản, bà suy nghĩ một chút rồi vỗ đùi một cái, nói:

“Có cách rồi!”

Sau đó, bà đứng dậy nói với ông tôi:

“Đừng sợ, có chị đây. Cái lão c.h.ế.t dẫm ấy, chẳng biết còn say đến bao giờ… Chẳng phải cậu đánh xe đến đây sao? Vậy cứ chở lão ấy về thôn Chu Gia Khảm của cậu đi! Vậy là xong!”

Ông tôi vừa nghe vậy liền xua tay rối rít:

“Không được đâu chị ơi! Trời ngoài kia lạnh như cắt, lỡ làm đại ca cảm lạnh thì c.h.ế.t mất!”

Bà ấy nghe xong cười phá lên, vừa nói vừa lục tìm chiếc áo bông của chồng:

“Không sao đâu, cứ nghe chị! Chị chẳng lẽ không hiểu cái lão này chắc? Hôm nào say mềm chẳng lăn quay ngủ ngoài trời? Lạnh cỡ nào mà c.h.ế.t nổi!”

Nói thì nói thế, nhưng ông tôi thấy bà ấy không chỉ lôi áo bông ra, mà còn lấy thêm mấy lớp áo ấm nữa, thậm chí lôi cả chăn bông ra. Lúc đó ông hiểu ngay: chị dâu thật lòng muốn giúp, không nỡ thấy vợ chồng ông gặp nạn.

Lòng cảm kích dâng trào, ông tôi quỳ sụp xuống trước mặt bà ấy.

Vợ Lưu tiên sinh vội kéo ông dậy, trách nhẹ:

“Tiểu Thôi, cậu làm gì vậy! Cậu mà còn thế này là chị giận thật đó!”

Ông tôi đứng dậy, lau nước mắt, nghẹn ngào nói:

“Chị à… cảm ơn chị… tôi… tôi không biết nói gì hơn…”

Cả hai cùng vào gian sau, thấy Lưu tiên sinh vẫn đang ngủ say như chết, tiếng ngáy vang như sấm.

Thấy cảnh đó, bà vợ quay lại, tức giận lườm:

“Cậu xem cái lão này… còn bày đặt xem bói đoán mệnh! Giờ anh em gặp nạn đến nơi mà còn ngủ như con heo thế kia! Cho ông ấy lạnh c.h.ế.t cũng đáng đời!”

Nói xong, bà cùng ông tôi mặc áo ấm cho Lưu tiên sinh, gói ghém cẩn thận, rồi bảo ông tôi trải chăn bông lên xe lừa trước.

Sau đó, hai người cuộn ông ấy từ trong ra ngoài mấy lớp, ôm lên xe, đặt vào ổn thỏa.

Vợ Lưu tiên sinh còn vào nhà thu xếp chút đồ, rồi mang ra một cái rương lớn, đặt lên xe — đó là đồ nghề trừ tà bắt quỷ của Lưu tiên sinh.

Trước khi tiễn ông tôi đi, bà còn căn dặn phải cẩn thận, đứng trông theo mãi cho đến khi chiếc xe khuất bóng.

Về sau ông tôi mới biết, trong cái rương ấy, ngoài dụng cụ của Lưu tiên sinh, bà còn lén để lại bao gạo và hũ rượu mà ông tôi mang tặng hôm đó.

Bởi vì bà biết nhà ông tôi cũng chẳng khấm khá gì, nên lén lút để lại, không cho ông biết.

Nhiều năm sau, mỗi lần ông kể lại chuyện này, vẫn rưng rưng xúc động, nói với tôi:

“Làm người phải sống cho tử tế như vợ chồng Lưu tiên sinh vậy — tâm địa thiện lương, có tình có nghĩa.”

Nói đến đây, lại quay về phía nhà —bà nội tôi lúc này đang nóng ruột chờ ông trở về, trời sắp tối rồi, mà vẫn chưa thấy bóng dáng đâu.

Nghĩ đến tối nay “thứ đó” có thể lại đến, bà sợ đến phát run, nhưng không dám bước ra khỏi cổng.

Vì nghe người xưa dặn rằng:

“Nếu chẳng may gặp phải thứ không sạch sẽ, cách tốt nhất là ở yên trong nhà. Bởi vì khi ấy vận khí đang suy, nếu đi ra ngoài dễ bị thứ khác bám theo lần nữa.”

Chờ mãi, chờ mãi, bà tôi ngồi trên giường đất rồi cũng ngủ thiếp đi lúc nào không hay.

Trong mơ, lại là bà già mặc đồ tang, đội mũ trắng ấy xuất hiện, vẫn bộ dạng đó, ngồi ngay ở cuối giường, nhìn bà tôi bằng ánh mắt lạnh lùng chế giễu.

Bà tôi cố gọi, nhưng lại không sao phát ra tiếng.

Mụ già ấy giọng khàn khàn, âm u nói:

“Đừng tưởng cô gọi được người đến là tôi sợ. Mạng cháu tôi, tôi nhất định phải đòi lại!”

Nói xong, mụ ta bước xuống giường, rồi vút qua cửa sổ mà biến mất.

Bà tôi giật mình tỉnh dậy, toàn thân đầm đìa mồ hôi lạnh.

Còn chưa kịp hoàn hồn, đã nghe ngoài cửa có tiếng xe lừa và tiếng ông tôi gọi vọng vào:

“Bà nó ơi, mau ra giúp tôi một tay!”

Vừa nghe thấy ông về, bà tôi như tìm lại được chỗ dựa, lập tức khoác áo bông lao ra ngoài, thấy ông tôi và Lưu tiên sinh — người vẫn đang ngủ mê mệt vì say rượu.

Bà vội chạy lại phụ ông tôi khiêng Lưu tiên sinh vào nhà, đặt lên giường đất cẩn thận.

Sau đó ra thu dọn đồ trên xe lừa, sắp xếp đâu vào đấy rồi đánh xe mang trả.

[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -

Trên đường quay về, bà tôi cứ có cảm giác có ai đó đi theo sau, nhưng quay đầu lại thì chẳng thấy ai.

Nói thêm một câu, có lẽ ai trong chúng ta cũng từng có cảm giác như vậy, đi ngoài đường, rõ ràng thấy có gì đó bám sau lưng, nhưng khi quay lại thì lại chẳng có gì.

Cảm giác ấy thật sự khiến người ta nổi da gà.

Bà tôi rảo bước chạy vội về, tới nơi thì thở hổn hển, ngồi xuống giường nhìn thấy ông tôi đang đắp chăn cho Lưu tiên sinh, người vẫn đang ngủ ngon lành, mặt mũi hồng hào như không có gì xảy ra.

Bà tôi hỏi:

“Ông ấy bị làm sao vậy?”

Ông tôi đáp:

“Uống nhiều quá nên vẫn chưa tỉnh. Chị dâu sợ nhà mình gặp chuyện nên bảo tôi đưa ông ấy về đây luôn.”

Bỗng bà tôi nhớ lại giấc mơ ban nãy, liền kể lại từng chi tiết cho ông tôi nghe.

Nghe xong, ông chau mày:

“Cháu của bà già đó… chẳng lẽ là cái tên lang thang hôm trước? Thế này thì rắc rối to rồi!”

Hai người đều bối rối, chẳng biết phải làm gì.

May mà đã mời được Lưu tiên sinh về, trong lòng cũng an tâm phần nào.

Ông tôi bảo bà:

“Lấy hai cân bột mì trắng mình chuẩn bị cho Tết ra đi, hấp ít bánh bao, đợi ông ấy tỉnh thì có cái ăn.”

Nói rồi, ông vào kho lấy ít dưa muối với thịt đông lạnh ra, hai người cùng nhau chuẩn bị cơm tối.

Cơm xong, nhưng “Túy Quỷ Lưu” vẫn chưa tỉnh dậy.

Từ sáng đến giờ ông tôi chưa ăn gì, bà đành hâm lại ít cơm cao lương, hai người ăn tạm vài miếng, trời cũng dần tối.

Trời tối, lại một lần nữa, hai người thấp thỏm lo sợ — chẳng biết đêm nay lũ kia có lại đến không.

Chỉ mong mọi chuyện được yên ổn, nhưng đời nào có chuyện dễ dàng như vậy.

Càng mong không đến, nó lại càng tìm đến.

Khoảng tầm một, hai giờ sáng, lại là tiếng khóc lóc thê lương ấy vọng lên từ ngoài sân.

Nghe thấy tiếng đó, cả ông và bà tôi đều cảm thấy trong đầu như có thứ gì đó đang gào thét, như họ từng kể lại:

“Cứ như có ai đang lấy gậy đập vào đầu, bứt rứt, bực dọc, muốn phát điên… Thậm chí muốn dùng d.a.o chọc vào đầu cho bớt ức chế.”

Đúng lúc bà tôi mơ màng bước xuống cuối giường định cầm lấy cây kéo, thì Lưu tiên sinh bỗng trở mình trong chăn, mồm lèm bèm như đang nói mớ, rồi quát lớn một câu:

“Ồn ào cái gì thế hả?! Không thấy ông đây đang ngủ à?! Biến hết!!”

Câu đó như gáo nước lạnh dội thẳng vào não, làm ông bà tôi tỉnh táo lại ngay.

Nói không ngoa, chính câu chửi mắng đó như có hiệu lực thật sự, tiếng khóc bên ngoài lập tức im bặt.

Bà tôi vội vứt cái kéo xuống, trong lòng vẫn còn run rẩy.

Lúc đó, Lưu tiên sinh vẫn đang nằm trong chăn, lẩm bẩm như nói mê:

“Mẹ nó… làm ồn c.h.ế.t đi được… Lấy cái bùa này dán ngược lên cửa sổ phía bắc…Để xem mai tao xử chúng mày thế nào…”

Nói rồi, rút từ chăn ra một tờ giấy vàng nhăn nhúm, rồi lại ngủ tiếp như không có chuyện gì xảy ra.

Ông tôi nhận lấy món đồ từ tay ông ấy, nhìn kỹ thì ra là một tờ giấy đỏ có chữ “Phúc” thường dán vào dịp Tết. Ông tôi liền làm theo, đem tờ chữ “Phúc” ấy dán lên cửa sổ phía Bắc. Quả nhiên sau khi dán xong thì suốt đêm không có chuyện gì xảy ra.

Lúc nhỏ tôi không hiểu vì sao ông Lưu lại bắt ông tôi phải dán chữ “Phúc” lên cửa sổ phía Bắc. Mãi đến khi lớn lên, một lần tình cờ nhớ lại chi tiết này trong câu chuyện ông tôi kể, tôi tra cứu tài liệu thì mới biết, trong sách Mộng Lương Lục có ghi: “Dù là nhà quan hay dân thường, đến dịp Tết đều quét tước sạch sẽ cửa ngõ, trừ bụi bẩn, dọn dẹp sân vườn, thay thần cửa, treo tranh Chung Quỳ, đóng đào phù, dán thẻ xuân, cúng tế tổ tiên.” Trong đó, “dán thẻ xuân” chính là dán chữ “Phúc” viết trên giấy đỏ.

Chữ “Phúc” ngày nay thường được hiểu là “hạnh phúc”, nhưng trong quá khứ thì mang nghĩa “phúc khí”, “vận may”. Ngoài ra, chữ “Phúc” (福) còn đồng âm với chữ “Phục” (伏) nghĩa là hàng phục, nên cũng ngụ ý trấn áp tà khí, điều xấu. Tất nhiên đây chỉ là suy đoán của riêng tôi, bởi nhiều bí thuật dân gian xưa nay đã thất truyền, chẳng còn cách nào để kiểm chứng hay tìm lời giải thích chính xác nữa.

Trời vừa hửng sáng hôm sau, ông Lưu cuối cùng cũng tỉnh lại. Bà tôi vội vàng mang nước rửa mặt, hâm nóng đồ ăn cho ông. Ông Lưu mặc xong quần áo, mang giày bông lên, hướng về ông tôi chắp tay thi lễ, tươi cười nói:

"Lão đệ, thật xấu hổ để cậu thấy cảnh lão già này say khướt như vậy, lại còn phiền đệ phải chăm sóc."

Ông tôi vội đáp:

"Anh Lưu, đừng nói vậy, tôi mới thật là ngại, chưa kịp đợi anh tỉnh đã đưa anh về nhà mình rồi."

Ông Lưu ngồi lại lên giường đất, cười ha hả nói:

"Không sao đâu! Thật ra tôi nghe thấy cả rồi, là do Phấn Liên (vợ ông Lưu) bảo cậu đưa tôi về. Tôi cưới bà ấy cũng chính vì cái tính tốt bụng ấy. Ai… Cậu đừng trách, lúc đó tôi thật sự không thể tỉnh nổi."

Lúc này đồ ăn đã xong, bà tôi bày một cái bàn nhỏ trên giường đất, đặt lên đó một đĩa bánh hấp hoa văn, một thố dưa cải chua hầm thịt heo. Bình rượu cao lương thì ngâm trong một cái tô lớn đầy nước nóng để giữ ấm. Bà tôi vừa bày xong, hai người đàn ông đã bắt đầu ăn uống, bà cũng ngồi khoanh chân lên giường đất, nghe ông Lưu kể nguyên nhân vì sao hôm qua lại say đến vậy.

Hóa ra hôm đó ông Lưu đi xem đất làm mộ cho người ta, sau khi mọi việc xong xuôi thì được chủ nhà mời uống rượu. Ông uống chừng nửa cân thì thấy trời đã muộn nên cáo từ ra về. Trên đường về, ông gặp một người quen cũ tên là lão Vương. Nhưng lão Vương đã c.h.ế.t từ hai năm trước rồi!

May là ông Lưu làm nghề này nên không quá hoảng sợ, ngược lại còn thấy tò mò: người lẽ ra đã đi đầu thai sao lại xuất hiện? Ông liền đến hỏi thăm. Thì ra lúc sinh thời, lão Vương làm nhiều việc thiện, sau khi c.h.ế.t được bổ nhiệm làm quỷ sai dưới âm phủ, chuyên hỗ trợ Ngưu Đầu Mã Diện, Hắc Bạch Vô Thường bắt hồn người chết. Hôm đó trong làng có người qua đời, ông ta đi theo đoàn đám ma, nhân lúc Vô Thường đang dẫn hồn thì xin Mã Diện cho nghỉ nửa ngày để về thăm con trai và cháu nội.

Quỷ sai là loại mà bình thường đã hiếm gặp, huống chi lại là người quen cũ. Theo lệ trong nghề, những người ăn cơm âm phủ thường phạm phải “ngũ tệ tam khuyết”. Ngũ tệ là “quả, cô, côi, độc, tàn” (quả phụ, cô nhi, côi cút, đơn độc, tàn tật), còn tam khuyết là “tiền, mệnh, quyền”. Ông Lưu biết mình phạm vào mệnh khuyết, nhưng lại không biết khi nào thì “hết số”.

Bởi vì chỉ những người thật sự tinh thông Tam Thanh thư cùng kỳ môn thuật và bói toán mới có thể dùng pháp trận để dò ra thiên mệnh. Ông Lưu thì chỉ học được một phần bói toán gia truyền và một vài thuật bùa chú tình cờ thu được. Sợ nếu sự việc xảy ra đột ngột thì bản thân và người nhà không kịp trở tay, ông mới nảy ra ý định hỏi quỷ sai kia về dương thọ của mình.