Thế nên ông Lưu vội vàng gọi lão Vương lại, nói muốn mời ông uống rượu.
Sau đó ông lập tức chạy về nhà đốt rất nhiều tiền vàng và hình nhân bằng giấy để dâng cho Ngưu Đầu Mã Diện, Hắc Bạch Vô Thường, cầu xin bọn họ nới lỏng, để cho lão Vương ở lại dương gian thêm vài canh giờ.
Người xưa có câu: “Có tiền, ma cũng phải đẩy cối xay.” Huống hồ ông Lưu trả bằng tiền âm phủ và phụ nữ giấy, mà cái nghề âm dương sư xưa nay vốn cũng có mối liên hệ đặc biệt với âm giới, nên bọn họ cũng mắt nhắm mắt mở cho qua. Dù sao cũng chỉ là một tiểu quỷ sai, về âm phủ muộn vài giờ cũng chẳng ai phát hiện.
Nếu hỏi quỷ làm sao uống được rượu, thì xưa kia từng có bí thuật ghi chép: chỉ cần dùng loại cây thuộc tính âm để khuấy thì quỷ sẽ uống được.
Cây liễu thuộc ngũ quỷ, nên ông Lưu đã dùng cành liễu ngâm rượu, cùng lão Vương ngồi uống với nhau.
Qua ba tuần rượu, ông Lưu bắt đầu thăm dò lời nói của lão Vương. Mà lão Vương tửu lượng kém, uống vài chén đã ngà ngà, bất giác buột miệng tiết lộ thời điểm đại hạn của ông Lưu. Hóa ra vì ông Lưu tiết lộ quá nhiều thiên cơ, lại phạm vào “mệnh khuyết”, nên chỉ còn hai năm nữa là đến kỳ số tận.
Nhưng ông Lưu đâu phải hạng người tầm thường, ông biết mệnh số là có thể cải được.
Thế nên ông vội rót thêm rượu, hỏi liệu có cách nào kéo dài tuổi thọ. Ông biết lão Vương hễ uống nhiều là mồm miệng không giữ được, quả nhiên, lão liền nói: nếu từ bây giờ không ăn “cơm âm phủ” nữa, thì bớt được nghiệp tổn thọ, có thể sống thêm ba năm. Nói cách khác, ông Lưu còn có thể sống được năm năm nữa.
Nghe đến đây, ông Lưu vui mừng khôn xiết.
Bởi đó chẳng khác nào nhặt được thêm mạng sống. Ông liên tục cảm ơn, lại rót thêm rượu mời.
Do rượu ngâm cành liễu âm khí quá mạnh, nên cả người lẫn quỷ đều say mềm.
Sau khi tiễn lão Vương đi, dù tửu lượng cực cao, ông Lưu cũng say li bì suốt gần hai ngày.
Nhưng ông vẫn còn tỉnh táo, chỉ là do rượu âm thương thân, khiến ông không thể nhúc nhích, đành nằm yên một chỗ.
May mà vợ ông nhân hậu, bảo ông tôi kéo ông ấy về tận trại Chu Gia, nếu không e là đã xảy ra đại họa. Bởi vì tối hôm đó, ông Lưu phải dốc hết sức bình sinh mới đưa được tờ chữ “Phúc” cho ông tôi. Nếu chậm trễ thêm chút nữa, e rằng ông bà tôi đã gặp nguy hiểm rồi.
Ông tôi lúc ấy trong lòng ngổn ngang trăm mối, một mặt cảm kích ông Lưu đã cứu mạng mình, mặt khác lại buồn bã khi biết ông ấy chỉ còn sống được năm năm nữa.
Ông Lưu khoát tay cười bảo:
"Lão đệ đừng lo, đây là mệnh số đã định. Ăn uống xong sẽ giúp cậu hóa giải kiếp nạn này."
Ông tôi xúc động nói:
"Nhưng sao có thể để anh lại phải làm chuyện tổn thọ thêm chứ?"
Ông Lưu nâng chén uống cạn, mỉm cười:
"Chuyện trên đời vốn có số mệnh sắp đặt từ trong u minh. Từ nhỏ tôi đã theo đạo, không dám nói mình có lòng phổ độ chúng sinh, nhưng sống đến giờ, tôi chưa từng làm điều gì trái lương tâm. Nếu đây là kiếp số đã định, vậy cũng không oán than. Huống hồ giữa huynh đệ chúng ta, nếu tôi không ra tay giúp, dù có sống thêm được năm năm, tôi cũng chỉ sống trong ân hận day dứt mà thôi."
Ông bà tôi nghe xong những lời ông Lưu nói thì xúc động đến rưng rưng nước mắt, không biết nên nói gì, chỉ có thể liên tục gắp đồ ăn, rót rượu cho ông.
Cơm nước xong xuôi, ông Lưu cũng không dài dòng, liền bảo ông tôi đưa mình đến nơi hôm đó đám thảo khấu ném xác. Ông tôi dẫn ông đến ngọn núi phía sau làng, nơi đó gọi là núi “Nhất Đao Khảm”. Núi này vốn không cao lắm, nghe nói năm xưa từng xảy ra một trận động đất làm núi nứt làm đôi: một nửa sụp đổ, một nửa vẫn nguyên vẹn. Từ xa nhìn lại, giống như có người dùng d.a.o bổ đôi quả núi vậy.
Mấy hôm trước vừa có tuyết rơi, tuyết đọng trên núi dày đến ngang đầu gối, vô cùng khó đi. Cứ lội từng bước một như thế, họ đến được nơi vứt xác. Nhưng ông tôi lập tức nhận ra điều bất thường, bởi sao đã hai ngày rồi mà xác c.h.ế.t vẫn chưa bị lũ chó hoang, sói hoang ăn xác?
Ông Lưu ra hiệu bảo ông tôi giữ bình tĩnh, cả hai cùng tiến lên, bắt đầu gạt tuyết quanh xác c.h.ế.t ra. Trong lúc đang dọn dẹp, ông Lưu chợt phát hiện manh mối. Ông nhận thấy bụng của t.h.i t.h.ể trông xẹp lép. Theo lẽ thường, người c.h.ế.t vì bị nước sôi phỏng nặng thì bụng phải phình lên. Ông Lưu vén áo xác c.h.ế.t lên, sắc mặt lập tức trở nên xám xịt.
Chỉ thấy bụng của xác c.h.ế.t đã bị khoét rỗng từ lâu, bên trong có một con chồn vàng dài hơn một thước đang cuộn mình nằm đó, bụng nó căng tròn, đầu ngoạm chặt vào thực quản của thi thể. Một cảnh tượng vô cùng quái dị và kinh hãi. Ông tôi vừa nhìn thấy liền kinh sợ đến nghẹn cả tiếng, mồ hôi lạnh túa ướt lưng áo. Ông Lưu vội vận khí bấm tay tính toán, suy luận được phần nào chân tướng. Ông kéo áo xác c.h.ế.t đắp lại, quay sang nói với ông tôi:
"Việc này rắc rối to rồi."
Ông tôi nghe vậy, lòng như lửa đốt, vội hỏi:
"Sao lại thế, rốt cuộc là chuyện gì?"
[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -
Ông Lưu nghiến răng nói:
"Người xưa có câu: “Loạn thế sinh yêu nghiệt.” Con súc sinh này chính là một con chồn vàng tu luyện thành khí ở núi sau làng. Nhưng trong họ hàng chồn cáo, ít có loài nào luyện được thuật hóa hình. Loài hồ ly muốn hóa thành người thì phải đội sọ người, bái nguyệt (lạy trăng), còn loài chồn thì chui vào bụng người c.h.ế.t để thao túng thân xác mà đi lại như người sống. Xác c.h.ế.t kia có lẽ chính là một tên thảo khấu quanh vùng, bị hại c.h.ế.t rồi trở thành rối xác cho con súc sinh này. Gần đây trời tuyết lạnh, nó xuống núi tìm ăn, không ngờ bị cậu g.i.ế.c chết. Nhưng chồn vàng cực kỳ thù dai, thứ vợ chồng cậu nhìn thấy hôm trước chính là “lễ tang” do chồn vàng dựng lên để khóc cho thân xác bị mất. May mà cậu tìm tôi kịp thời, nếu không, ai thấy lễ khóc của chồn vàng trong ba ngày mà không hóa giải thì chắc chắn sẽ chết!"
Trong đầu ông tôi lúc này chỉ còn lại sợ hãi và hoang mang, nhưng ông biết chỉ có ông Lưu mới cứu được họ, vội vàng nói lớn:
"Đại ca, vậy... giờ phải làm sao bây giờ?"
Ông Lưu thở dài, như thể có điều khó nói. Một lúc sau, ông mới nói một câu:
"Trước tiên, đem nó thiêu đi, lát nữa về nhà sẽ nói tiếp."
Ông Lưu kéo con chồn ra khỏi thi thể, bảo ông tôi đi tìm cành thông khô để nhóm lửa thiêu. Còn xác c.h.ế.t kia, ông Lưu nói đó là kẻ bạc mệnh, c.h.ế.t rồi vẫn chưa được an nghỉ, bảo ông tôi lấy tuyết lấp tạm lên, sau này ông sẽ đích thân chọn cho một mảnh đất chôn, coi như tích đức. Làm xong hết thảy, mặt trời cũng đã lên đến giữa trời, hai người mới quay về nhà.
Ở nhà, bà tôi đã chuẩn bị sẵn cơm nước, thấy hai người trở về thì lập tức bày mâm lên bàn nhỏ trên giường đất. Sau đó bà hỏi ông tôi sự việc thế nào rồi. Ông tôi nhìn sang ông Lưu, ông ấy uống một ngụm rượu, thở dài một tiếng, cuối cùng nói:
"Không dễ đâu, bởi vì chồn vàng hại người, là tai họa lây đến ba đời đấy."
Nói rồi, ông bắt đầu giải thích cho ông bà tôi hiểu. Thì ra loài chồn vàng bản tính hung ác, tàn bạo, không bao giờ tha cho những con mồi yếu thế, dù không ăn hết cũng nhất định phải cắn c.h.ế.t toàn bộ. Mà sau khi luyện thành khí, chúng trở nên vô cùng thù dai. Một khi bị chúng nhắm đến thì đừng hòng chạy thoát. Cho nên gọi là "tai họa ba đời", nghĩa là nếu đời này nó chưa trả được thù, thì đời sau nó sẽ hại con trai của kẻ thù, kế tiếp sẽ hại đến đời cháu chắt. Mà vì trên núi sau làng có rất nhiều chồn vàng, muốn g.i.ế.c sạch là điều không thể. Chỉ đến khi m.á.u nợ m.á.u trả hoặc đến đời thứ tư của gia đình thì mối hận ba đời ấy mới có thể kết thúc.
Ông bà tôi nghe xong thì như rơi xuống hố băng, lòng lạnh buốt. Nhìn vẻ mặt trầm tư của ông Lưu, trong lòng họ đã chẳng còn tâm trí nào mà ăn uống nữa, chỉ biết trông chờ vào ông ấy, hy vọng có thể nghĩ ra cách gì đó để cứu giúp.
Một lúc lâu sau, ông Lưu đột nhiên vỗ đùi đánh “bốp” một cái, cuối cùng cũng nghĩ ra một biện pháp. Ông quay sang nói với ông bà tôi:
"Lão đệ, hiện giờ chỉ còn một cách thôi, nhưng là trị ngọn không trị gốc.'
Ông tôi nghe vậy, mừng rỡ như vớ được cọc, lúc này đâu còn nghĩ đến hậu quả, vội hỏi:
"Là cách gì vậy?"
Ông Lưu nói:
"Vốn có hai cách. Cách thứ nhất là mỗi năm, vào ngày giỗ con chồn vàng kia, tôi sẽ làm pháp sự siêu độ. Làm đủ mười năm, nghiệp oán sẽ được hóa giải. Nhưng cậu cũng biết, tôi chỉ còn sống được năm năm nữa. Sau khi tôi c.h.ế.t rồi, sợ rằng không thể bảo vệ được cả nhà cậu. Vậy nên chỉ còn cách thứ hai: đêm nay, tôi sẽ đến gặp nó thương lượng, sau đó hàng năm đều phải hương khói cúng bái nó. Ngoài ra, tôi sẽ vẽ một đạo bùa, tuyệt đối không được để dính nước, phải do người nhỏ tuổi nhất trong nhà cậu đeo. Miễn sao trừ lúc tắm rửa thì không được rời khỏi người. Cứ như vậy cho đến khi đứa nhỏ nhất đời cháu của cậu tròn hai mươi tuổi, thì mối oán hận này sẽ tự tiêu tan. Đến lúc đó, con chồn kia cũng trở thành “thần giữ nhà”, phù hộ mùa màng tươi tốt, cơm áo đủ đầy."
Nghe xong, cuối cùng ông bà tôi cũng thở phào nhẹ nhõm — chỉ cần có hy vọng là được! Họ vội vàng cảm tạ ông Lưu đã cứu mạng rồi nhận lấy đạo bùa đó.
Bà tôi kể lại, tối hôm ấy, ông Lưu một mình mang theo hương đèn, giấy bút, bước ra khỏi nhà. Ông không cho ai đi theo. Mãi đến hơn hai canh giờ sau mới trở về, mặt mày phờ phạc, mệt mỏi rã rời. Vừa vào nhà, ông nói:
"Xong rồi."
Ông bảo ông tôi tìm một tấm ván gỗ lớn, dặn bà tôi chuẩn bị hồ dán. Sau đó ông mở tờ giấy đỏ mang theo lúc đi ra ngoài. Trên giấy viết sáu chữ to: “Hoàng Tam Thái Nãi chi vị” (Bài vị Thái bà họ Hoàng). Ông Lưu dán tờ giấy đỏ đó lên tấm ván, châm hương cúi đầu vái lạy, rồi dặn ông tôi ngày mai thuê thợ mộc đóng một cái khám thờ tử tế, từ nay về sau mỗi dịp lễ tết đều phải thắp hương cúng bái.
Ông bà tôi tất nhiên là cảm tạ rối rít, hôm sau còn làm một mâm cơm rượu cảm ơn ông. Sau đó, ông Lưu từ biệt ra về, ông tôi liền mượn xe lừa đưa ông về lại núi Niễn Tử.
Từ đó về sau, ông bà tôi làm đúng theo những gì ông Lưu dặn, quả nhiên mọi việc đều yên ổn, bình an vô sự.
Viết đến đây, chắc hẳn sẽ có nhiều người nghi ngờ: “Thế gian này thật sự có ma quỷ thần linh sao?” Dân gian có câu: "Tin thì có, không tin thì không."
Thật ra từ thời xưa đã có rất nhiều truyền thuyết thần quái lưu truyền rộng rãi, chẳng hạn như 《Tìm Thần Ký》, 《Tử Bất Ngữ》, hay tác phẩm nổi tiếng 《Liêu Trai Chí Dị》. Những tác giả đó đều mượn chuyện thần quái để gửi gắm suy nghĩ, đạo lý làm người.
Tôi cũng chỉ muốn ghi lại những điều mà mình từng trải qua, mọi người đọc chơi cho vui, đừng quá coi là thật.
Nói mới nhớ, có rất nhiều bạn từng hỏi tôi: “Nếu thật sự có nhiều thần quỷ yêu ma đến thế, thì sao bây giờ lại rất hiếm thấy, thậm chí chẳng thấy nữa?”
Thật ra tôi cũng từng có suy nghĩ này. Năm đó tôi về quê ở một thôn nhỏ thuộc núi Niễn Tử, tối đến sau bữa cơm, ngồi ngoài sân hóng gió, nghe các cụ cao niên trò chuyện. Họ bảo thời xưa những chuyện như thế nhiều lắm, thậm chí rất thường gặp. Dân gian khi ấy cũng có không ít người có bản lĩnh thật sự. Nhưng từ sau khi giải phóng, người ta bắt đầu đề cao khoa học, bài trừ mê tín. Chủ tịch Mao từng nói: “Đả đảo tất cả yêu ma quỷ quái!”, phát động phong trào phá tứ cựu, lập tứ tân. Hàng triệu Hồng vệ binh giơ cao “chổi sắt”, ào ào kéo đến phá hủy miếu mạo, di tích, đập nát tượng thần, bài vị, bia đá... Hễ cái gì dính dáng đến thần quái là đập phá sạch sẽ. Bạn nghĩ xem, khi cả một dân tộc cùng điên cuồng như thế, còn nơi nào để quỷ thần dung thân?
Thế mới thấy, khi lòng người chỉ hướng về lãnh tụ vĩ đại, chỉ tin vào cuộc sống tươi sáng phía trước, thì yêu ma quỷ quái tự khắc sẽ không còn chỗ bám víu.