Nữ Đồ Tể Cao Thu Nhạn

Chương 2



Phụ thân ta dù giữ được một m-ạ-ng, nhưng thân thể đã chẳng còn nguyên vẹn.

Lưng người là nơi thương tích nặng nhất, lúc được khiêng về, da th-ị-t và áo vải đã dính liền thành một thể. Vậy mà tiểu thúc ta – Cao Phú – vẫn thản nhiên ngồi bên, bưng bát cơm ăn như chẳng có chuyện gì xảy ra.

Tiểu thúc đã ngoài ba mươi, chưa cưới vợ. Ông nội bà nội sớm quy tiên, chỉ để lại một người em trai là hắn. Phụ thân ta thương hắn lắm, những món th-ị-t cá dư lại từ tiệc tùng đều gói ghém đem về cho hắn. Thỉnh thoảng còn dúi cho chút bạc vụn tiêu vặt.

Thế nhưng lòng người, càng cho lại càng thấy chưa đủ.

Vài năm trước, hắn mặt dày đến tận cửa, há miệng xin phụ thân ba mươi lượng bạc để cưới vợ. Khi ấy mẫu thân ta trọng bệnh, thuốc thang uống như nước lã, phụ thân dĩ nhiên chẳng thể đáp ứng, liền thẳng thừng cự tuyệt.

Từ đó hắn liền ra ngoài rêu rao, nói phụ thân ta là hạng vong ân phụ nghĩa, trơ mắt nhìn em ruột cả đời cô đơn không vợ.

Tiếng rên đau đớn của phụ thân ta như ống bễ rách, từng hồi đứt quãng, khiến lòng ta thắt lại như bó lạt ngâm nước.

Mà tiểu thúc vẫn ngồi một bên, miệng lải nhải chẳng ngơi:

“Tiếc mấy đồng bạc không chịu giúp ta cưới vợ, giờ cũng phải tiêu đi bằng cách khác thôi.”

“Lúc trước cha mẹ còn sống, cứ khen huynh có tiền đồ hơn ta. Giờ thì sao? Có giỏi mấy cũng chỉ là một kẻ bạc mệnh nằm chờ ch-ếc.”

“Huynh à, dáng nằm co quắp kia… nhìn chẳng khác gì một con ch-ó ch-ếc bị quăng lên kệ gỗ.”

Thì ra, miệng lưỡi nam nhân lắm khi cũng cay nghiệt chẳng kém gì phụ nhân!

Ta nhặt lấy một viên sỏi nhỏ, giả bộ cúi mình chỉnh lại vạt áo, tay khẽ kẹp viên đá, búng “vút” một cái, bay thẳng vào bát cơm của tiểu thúc.

Hắn sửng sốt, ngẩng đầu chửi rủa:

“Ủa? Trên trời sao lại rơi đá xuống thế này!”

Vừa mới nhặt viên sỏi ném ra ngoài, thì một con sẻ nhà xẹt qua trên đầu – con vật nhỏ kia mắt tinh chẳng kém – “bốp” một tiếng, để lại một bãi phân vào đúng cái bát hắn đang ăn.

Hầy! Thật khoái chí.

Về đến nhà, ta c-ắ-t áo phụ thân ra bằng kéo, rắc thuốc kim sang lên miệng vết thương, đau đến mức phụ thân siết chặt mép giường, tiếng gỗ rên lên “kẽo kẹt” từng hồi.

Nhưng họa vô đơn chí.

Nhà họ Triệu – nơi đã đính hôn cùng ta – vừa nghe tin phụ thân gặp chuyện, lập tức trong đêm kéo tới, ép lui mối hôn.

Ngày trước, bà mối hết lời khen ngợi:

“Cô nương Nhạn Nhi tay chân lanh lẹ, biết đỡ đần bếp núc, giở nồi xào chảo chẳng thua kém gì ai, quả là mẫu người giỏi lo liệu cuộc sống.”

“Huống hồ gương mặt tròn trịa, cằm đầy trán rộng, tướng mạo phúc hậu, nhìn qua đã biết là mệnh vượng phu ích tử.”

Giờ đây, mẹ chồng tương lai lại vênh váo sỉ nhục:

“Con bé Cao Thu Nhạn kia ấy à, cây kim thêu cầm không nổi, đến Tam Tự Kinh cũng đọc không xong, thô tục dốt nát chẳng thể gả vào cửa nhà ta được!”

“Lại còn cái gò má kia, nhô cao tận trời! Cổ thư có nói, đàn bà gò má cao, s-á-t phu không cần d-a-o đấy!”

Triệu Hữu Tài – vị hôn phu của ta – co ro phía sau như đứa trẻ chưa cai sữa, chỉ biết kéo tay áo mẹ, thì thào:

“Mẫu thân, đừng nói nữa… đã muốn lui thân thì cứ nói rõ, cần gì phải nhục mạ nàng.”