Ta xuyên không mà vận chẳng tốt lành, rơi ngay vào một nhà nông nghèo cổ đại.
Cả nhà chỉ có mười mẫu ruộng cằn cỗi.
Vừa mới học đi chập chững, ta đã theo cha mẹ ra đồng làm việc.
Từ năm tám tuổi, trời vừa tờ mờ sáng là phải đi bộ hai dặm ra sông gánh nước tưới ruộng.
Trong làng, nhà nào nuôi nổi trâu cày là quý hiếm như vàng, vào mùa vụ chỉ biết trông vào sức người cuốc đất cuốc cỏ.
Tưởng tượng về cuộc sống điền viên thì đẹp đẽ biết bao, nhưng thực tế lại là mặt dán đất, lưng chầu trời, khổ không tả xiết.
Ta gánh nước đến rách cả vai, vai chưa lành thì tay chân lại phồng rộp, phải tự mình cắn răng chọc vỡ từng bọng nước.
Nhiều lần đau đến nỗi nước mắt lã chã rơi xuống ruộng.
Nhưng dù cả nhà ai nấy đều cực khổ như vậy, sản lượng thu hoạch mỗi năm vẫn chẳng được bao nhiêu.
Thời này, nông dân còn phải nộp thuế bằng lương thực.
Sau khi nộp đủ thuế, trong nhà liền rơi vào cảnh chạy ăn từng bữa.
Phụ mẫu đành đem gạo trắng đổi lấy ngũ cốc thô rẻ tiền hơn, gắng gượng sống qua năm.
Từ khi xuyên đến đây, ngoại trừ mấy miếng thịt mỡ vào dịp Tết, ngày thường toàn ăn rau dại với cháo loãng.
Thỉnh thoảng có thể dùng tí mỡ heo trộn cơm, hoặc bắt vài con cá vụn dưới sông kho mặn ăn lấy hương lấy hoa — ấy đã là khoảnh khắc cả nhà hạnh phúc nhất rồi.
Dĩ nhiên, ta cũng từng nghĩ đến viễn cảnh như mấy nữ chính truyện điền văn, vào thành buôn bán đổi đời.
Chỉ tiếc… người hiện đại thường đánh giá quá cao trị an thời cổ.
Từ làng ta đến huyện thành cách hai mươi dặm, nửa đường có thể gặp sơn tặc, nửa đường bị bọn lưu manh thu phí qua cầu qua đường.
Chưa vào đến thành đã bị vét sạch túi.
Phụ mẫu cổ đại lại cho rằng buôn bán chẳng bằng nuôi tằm dệt vải.
Cùng lắm thì làm thêm đồ đan, đồ thêu, cũng còn có cái bỏ vào miệng.
Ta tuổi còn nhỏ, tính ra thì cũng chỉ mới bằng học sinh tiểu học thời hiện đại.
Cha nương chẳng bao giờ coi trọng mấy lời ta nói.
Thế nên, ta cắm đầu cắm cổ làm việc, không còn hơi sức đâu mà mơ mộng xa xôi.
Giống như các vị đại gia Hong Kong từng trải nghiệm cuộc sống nghèo khổ — kẻ ở đáy xã hội muốn ngoi lên, mười phần hết chín là ảo tưởng.
Nếu không phải năm nay đại hạn, mùa thu hoạch lại chẳng đủ nộp thuế,
e rằng cả đời ta cũng chẳng rời nổi cái thôn này.
Năm mất mùa, nhà nông phải bán con bán cái đầy rẫy.
Ta cũng theo dòng người bị bán, vào thành, bị nhốt trong nha hành.
Mỗi khi có đợt "hàng mới", bọn nha hành sẽ báo cho đám phú quý quyền thế trong thành đến chọn người trước.
Nếu chẳng ai chọn, kết cục của ta không phải thanh lâu thì cũng là bị bán cho mấy kẻ ưa hành hạ người.
Ngày tháng bị nhốt trong nha hành, từng khắc từng khắc đều chìm trong nỗi sợ c.h.ế.t không kịp trối.
[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -
May mắn thay, ta trước kia từng đi học, đọc được không ít chữ phồn thể.
Lại thêm khả năng tính nhẩm khá tốt — điểm cộng từ nền giáo dục phổ thông hiện đại.
Tính toán trong phạm vi ba chữ số, ta vừa nghe đã có thể đáp ra đáp án.
Nhờ vậy mà trong vòng tuyển chọn đầu tiên,
ta được Tấn Dương Hầu phủ chọn làm nha hoàn thô sử.
Phủ Tấn Dương là thế gia quyền quý lớn nhất huyện ta, họ Lưu.
Ta có thể lọt vào mắt xanh nhà ấy, đúng là phúc phận tổ tiên ba đời tích đức mới có.
2
Sau khi vào phủ, ta được phân xuống bếp làm việc.
Chớ hiểu lầm.
Một đứa nha hoàn thô sử như ta, vốn là hàng mua từ ngoài vào, đừng mơ tới chuyện được nấu ăn cho đám chủ tử cao quý trong phủ.
Cái bếp mà ta làm việc là nơi chuyên nấu cơm canh cho đám hạ nhân — tức là nồi lớn, cơm cặn, rau dập.
Follow FB. HOA VÔ ƯU để đọc thêm nhiều truyện hay bạn nhé !!!
Ban ngày, ta lo nhặt rau, rửa bát, gánh nước, đun nước — việc gì cũng đến tay.
Ban đêm thì theo Trương mụ mụ phụ trách bếp tổng kết sổ sách trong ngày.
Cuộc sống vẫn cực nhọc như cũ,
nhưng Trương mụ mụ là người ngoài cứng trong mềm, mồm mắng như mưa, nhưng tay thì kín đáo nhét cho ta một khối giò heo to tổ bố khi không ai để ý.
Mụ nói chuyện sổ sách trong bếp rối rắm rườm rà, mỗi ngày ghi chép mỏi cả tay, mệt cả đầu.
Từ khi quản sự phân ta sang giúp mụ, mụ thấy nhẹ nhõm hẳn.
Ta ôm khúc giò heo nóng hổi, cẩn thận nếm từng thớ mỡ, từng sợi da giòn tan, như nếm được mùi thơm của đạm và mỡ quyện vào nhau.
Không kìm được, nước mắt cứ thế tuôn rơi.
Chỉ mới nghĩ tới trước kia mỗi bữa đều có cơm có thịt, mà giờ phải sống thế này…
đến cả hộ nghèo thời hiện đại còn sống ngon hơn ta gấp bội.
Cảm giác chua xót ấy, thật sự không lời nào tả nổi.
May mà cuối cùng cũng chen chân vào được Hầu phủ, coi như khổ tận cam lai.
Ta hỏi Trương mụ mụ sao kiếm được một khối giò heo to đến vậy.
Mụ chỉ bĩu môi:
“Trong phủ ai người ta ăn thứ đó! Chủ tử nhà này chướng mắt nhất là đồ nhiều mỡ, đặc biệt là chân giò — cái bộ phận cả ngày dẫm bẩn thỉu, ngửi còn chẳng muốn ngửi, huống chi ăn.”
Thì ra mỗi ngày phủ đều g.i.ế.c heo. Mỡ, chân giò, lòng dồi — mấy thứ "hèn hạ" ấy toàn để phần cho đám nô bộc thô sử như chúng ta.
Trương mụ mụ thấy ta mặt vàng da xanh, lại có chút thông minh lanh lợi, bèn tranh thủ tiện tay giúp ta một phần.
Quả không hổ câu:
“Cửa son thối thịt chó, ngoài đường c.h.ế.t rét xương khô.”
(Tương tự câu “Kẻ ăn không hết, người lần không ra)
Cùng lúc dân đói đến mức bán con đổi gạo, Hầu phủ lại chê giò heo bẩn không ăn.
Ta làm ở bếp được nửa năm, tiền bạc dành dụm đều gửi về quê giúp nhà vượt qua nạn đói.
Còn bản thân vì thi thoảng được ăn giò heo, mà tăng hẳn… mười cân thịt.
Dù công việc vẫn cực nhọc, nhưng so với những ngày phơi lưng ngoài đồng nắng gió mưa sa, rõ ràng là thiên đường.
Cuộc sống của ta, có thể nói là đã khá lên thấy rõ.