Vừa bước chân vào thế tục, Thẩm Liệm đã bị một câu tùy tiện của Cố Quyệt làm cho đầu óc ong ong.
Xưa nay, nàng chỉ vùi đầu khổ đọc kinh thư, thỉnh thoảng nhàn rỗi thì thích nghe mấy chuyện nhảm nhí vô tích sự để giải toả đầu óc, còn những vấn đề thực tế, đúng là nàng chưa từng quá để tâm.
Hôm nay Cố Quyệt vừa nhắc một câu, nàng bất chợt nhớ lại chuyện hôm đi mua gạo, nghe thím mập kể ngọn nguồn hiệu thuốc Từ gia — Chẳng phải nhà bọn họ cũng nhờ có người thân làm trong nha môn nên mới dám làm càn đến vậy sao?
Từ gia bán thuốc giả lừa người như vậy, chẳng lẽ thực sự không ai đến nha môn cáo quan?
Là không ai dám đi, hay là đi rồi cũng chẳng có tác dụng gì......?
Nghĩ kỹ lại, đúng là càng thêm chứng thực lời nói của Cố Quyệt. Còn chưa tới mùa hạ mà cả người Thẩm Liệm đã toát đầy mồ hôi lạnh.
...Nàng chưa từng nghĩ tới vấn đề này, thậm chí nàng còn luôn tưởng rằng quan sai trong nha môn đều là những người hành thiện, trừ gian diệt ác, hết lòng vì dân.
Bởi vì nàng đi học cũng chính vì mục tiêu ấy.
Để làm một vị quan tốt, vì lê dân bách tính, để đền đáp triều đình.
Bao năm đèn sách khổ luyện, bao năm nghe đạo lý thánh hiền, chỉ để một ngày được khoác lên hồng bào[1], phá tan thế gian hiểm ác, trả lại công bằng lẽ phải.
[1] Khoác lên hồng bào: Thành ngữ dùng để chỉ một người được ban cho chức vị cao và bổng lộc hậu hĩnh, thường dùng để miêu tả việc một người được thăng chức hoặc địa vị được nâng cao.
Nhưng hiện giờ, có người lại đột nhiên nói với nàng rằng nàng nghĩ sai rồi, sao nàng lại không thấy kinh hãi được chứ?
"Ngươi tưởng từ dân hàn môn mà sinh ra được quý nữ, quý tử chắc?" Có lẽ là trông thấy bộ dạng như sét đánh ngang tai của Thẩm Liệm, Cố Quyệt cảm thấy có chút buồn cười, lại ung dung bồi thêm một câu. "Chẳng phải ngươi cũng muốn thi đỗ công danh, cũng muốn làm quan à?"
Hai người bước đi trong nha môn.
Nha môn thành Thiên Thủy tọa bắc hướng nam, lại thêm lý do là phong địa của Công chúa nên được xây dựng theo quy chế sáu lớp cửa. Qua đại môn là tới nghi môn, hai dãy nhà đông tây cạnh nghi môn là phòng thu thuế vụ và lao dịch.
Bởi vì hiện tại không phải kỳ thu thuế nên nơi này đều đóng chặt, đến kỳ thu hoạch mới có người đến thu thuế địa phương.
Tiếp tục đi vào trong là đại đường.
Vì hai bên đông tây trong đại đường là kho lương và kho vũ khí, lại có người canh giữ đặc biệt, nên bọn họ chỉ có thể đi vòng qua sáu bộ phòng nằm ở hai dãy đông tây phía trước. Có lẽ là sắp đến giờ hạ nha, người trong sáu bộ gần như đã rời đi hết, cũng thuận tiện cho bọn họ hành sự.
Thẩm Liệm trông thấy chính sảnh của đại đường từ xa. Đó là nơi thăng đường của nha môn, trên xà nhà còn gắn tấm biển ghi dòng chữ "Gương sáng treo cao".
Vừa uy phong vừa trang nghiêm. Thẩm Liệm chỉ dám liếc nhìn một cái rồi không dám nhìn thêm nữa.
"Học hành gian khổ nhiều năm, đương nhiên là để thi đỗ công danh, để được làm quan." Thẩm Liệm thu ánh mắt về, đáp lời Cố Quyệt.
Đây không phải ý niệm đáng xấu hổ, cũng chẳng phải vọng tưởng hão huyền.
"Nhưng ngươi có biết làm quan thế nào không?" Đi qua đại đường và trạch môn, rồi băng tiếp qua một hành lang dài, cuối cùng họ cũng tới nhị đường.
Cố Quyệt đứng đó, tay chỉ hai bên nhị đường:
"Đó là nơi làm việc của Huyện thừa[2] và Điển sử[3]. Nếu sau này ngươi đỗ cử nhân, dựa theo quy định, sẽ được xếp vị trí chờ phân quan. Nếu may mắn, ngươi có thể trở thành Huyện thừa hoặc Điển sử."
"Sau kia chính là nội trạch, là nơi ở của Huyện lệnh. Muốn bước chân vào đó, ít nhất phải là tiến sĩ tam giáp[4]."
[2] Huyện thừa: Chức quan phó đứng sau Huyện lệnh.
[3] Điển sử: Chức quan cấp thấp hơn Huyện thừa.
[4] Tiến sĩ tam giáp: Một loại học vị trong kỳ thi Đình. Nhất giáp gồm danh xưng Trạng nguyên, Thám hoa, Bảng nhãn; nhị giáp sẽ là bậc sau đó; tam giáp sau nhị giáp, vẫn tính là đỗ cao.
Quy tắc làm quan ở Vụ triều so với tiền triều thì không khác nhiều lắm, điểm khác biệt duy nhất là Vụ triều có thêm nữ quan.
Thẩm Liệm muốn làm quan, đương nhiên hiểu rõ nhưng quy tắc này, liền gật đầu:
"Có thể vào tam giáp đã là ước mơ khó cầu của ta rồi."
Với học thức hiện giờ của nàng, muốn trúng tam giáp chắc phải đến bốn mươi tuổi mới có triển vọng.
"Làm quan, đương nhiên phải thanh liêm chính trực, quang minh chính đại, không thẹn với dân, không hổ với trời." Thẩm Liệm đáp lời Mai Nhân.
"Ngươi nói rất hay, nhưng ngươi biết không, trước khi làm quan, rất nhiều người cũng từng nghĩ như ngươi."
"Vậy chẳng phải là rất tốt sao?"
"Nếu như tốt, vậy tại sao ngày ấy chúng ta lại bị trói đưa lên núi?" Cố Quyệt hỏi nàng. "Không phải ngươi rất thích hóng chuyện sao? Lúc ở trên núi chẳng lẽ không ai nói cho ngươi nghe vì sao bọn họ phải lên núi làm thổ phỉ à?"
Thẩm Liệm đương nhiên biết, không cần suy nghĩ cũng có thể trả lời:
"Nghe nói là vì không nộp nổi thuế......"
"Vậy ngươi có biết triều đình áp thuế cho dân chúng bao nhiêu không?"
"Cái này sao lại không biết được? Hàng năm mỗi lần đóng thuế đều là ta đi nộp chứ ai. Thuế ruộng mười lăm thu một; hài tử dưới mười tám thu hai mươi (20) tiền mỗi năm, từ lúc thành niên đến gần sáu mươi thì một năm một trăm năm mươi (150) tiền; thuế hộ mỗi năm ba mươi (30) tiền; thuế canh thì đắt hơn chút, ba trăm (300) tiền mỗi người."
Trước khi lão Thẩm chết, hoàn cảnh sống của Thẩm gia cũng không phải quá tệ, nhưng dù vậy, mỗi năm tới kỳ nộp thuế, lão Thẩm cũng lo âu đến mất ăn mất ngủ mấy ngày.
Không lý do gì khác.
Thuế của Vụ triều thực sự quá cao, năm nào thu hoạch tốt thì có thể cắn răng chịu đựng, nhưng nếu như mất mùa, vậy họ cũng chỉ còn con đường bán đất bán ruộng, bán vợ bán con mà thôi.
Linh Đế lại còn ra lệnh cấm mua bán trẻ em, chặn đứt ý tưởng sinh nhiều con để giảm gánh nặng thuế của dân nghèo.
Khi thực sự chẳng đóng thuế nổi nữa, dân nghèo cũng chỉ còn con đường bán nhà bán đất, bán cả thê tử mà thôi.
Đến khi bán hết rồi, tay trắng chẳng còn gì nữa, họ sẽ thành lưu dân.
Lưu dân không nộp được thuế sẽ bị lưu đày ra vùng biên giới Thường Châu và Hoang Bắc để khai hoang, hoặc bị bắt giải lên kinh thành xây đường sắt.
Tóm lại, dù là con đường nào, trước mắt cũng chỉ có thể chờ chết.
Đã như vậy, thà họ vào rừng làm cướp. Tuy bị bắt thì cũng chết, nhưng ít ra trước khi chết bọn họ còn có thể sống mấy ngày sung sướng, không phải sao?
Cố Quyệt vô cùng hài lòng với câu trả lời của Thẩm Liệm, khẽ gật đầu nói:
"Triều ta có sông Vị chảy qua, đất đai màu mỡ, cho dù là ở đất Khê Châu xa xôi này, mỗi mẫu đất cũng có thể thu hoạch khoảng hai thạch lương thực. Tính theo số lượng trong sổ sách, mỗi hộ gia đình năm người ở Khê Châu sẽ có khoảng bốn mươi mẫu đất, cũng tức là sẽ thu được khoảng tám mươi thạch lương thực, mỗi thạch ước chừng năm mươi tiền."
Cố Quyệt thản nhiên tính toán giúp Thẩm Liệm:
"Hai người lớn, ba hài tử, nếu như cả nhà không ai phải đi lao dịch trong năm đó, vậy một năm sẽ phải nộp cho triều đình chín trăm bốn mươi tiền, đúng không?"
"Ngươi giỏi toán thật đấy." Thẩm Liệm thán phục.
"......" Cố Quyệt nhìn nàng như nhìn kẻ ngốc. "Đây cũng là chuyện đáng để khen sao? Loại phép tính này trẻ năm tuổi còn làm được, chẳng lẽ ngươi không biết?"
Thẩm Liệm lắc đầu, thành thật đáp:
"Ta tính toán hơi chậm."
Khoa cử không phải thi tính toán, mấy người đọc sách như bọn họ tự nhiên sẽ không học, chỉ biết qua loa, đủ để tính toán sổ sách là được.
"Vậy thì ngươi nên học cho tốt." Cố Quyệt nghe xong lại châm chọc. "Bằng không sau này làm quan, không biết làm toán, ngươi định vơ vét tiền kiểu gì?"
Thẩm Liệm sững sờ, trong lòng lập tức bùng lên cơn giận vì lý tưởng bị chà đạp.
Nhưng nàng còn chưa kịp mở miệng phản bác, lại nghe Cố Quyệt nói tiếp:
"Ngươi biết không, thực ra triều đình quy định thuế ruộng là ba mươi (30) thu một, thuế khẩu mỗi năm mười lăm (15) tiền, thuế thân mỗi năm năm mươi (50) tiền, thuế hộ hai mươi (20) tiền, thuế canh hai trăm (200) tiền."
Thẩm Liệm đếm ngón tay, tính toán một lúc, rồi giật mình kinh hãi:
"Vậy tính ra mỗi năm chỉ tốn sáu trăm tiền thôi!"
Chênh tận ba trăm bốn mươi tiền, nếu tiết kiệm một chút thì số tiền đó có thể đủ mua lương thực cho một nhà năm người cả tháng rồi.
Nàng hỏi tới cùng:
"Khê Châu sao lại thu cao hơn triều đình nhiều như vậy?!"
Nói xong, nàng đột nhiên nhớ ra, Khê Châu là phong địa của Lạc Dương Công chúa, mà vị Công chúa kia mê đắm thanh sắc, hành sự hoang đường, tiêu tiền như nước. Một Khê Châu to lớn phải cung dưỡng một vị Công chúa như vậy, quả thật cũng quá sức, không gánh nổi.
"Phải rồi, chúng ta còn phải cung dưỡng vị Công chúa Điện hạ kia nữa mà."
Nghe vậy, Cố Quyệt cười khẩy một tiếng:
"Ngươi cảm thấy thuế ở Khê Châu cao đến vậy là bởi vì có Công chúa ở đây sao?"
"Chẳng lẽ không phải?"
"Đương nhiên không phải. Bởi vì trừ Khê Châu ra, thuế ở các châu phủ khác nhiều hơn triều đình gấp đôi có thừa." Nàng lãnh đạm nói. "Nói không chừng bởi vì Khê Châu còn có một Công chúa hoang đường, nên quan lại ở đây mới không dám tham lam quá mức."
Dù sao ai mà biết được ngày mai nàng có thể bày ra trò gì, người trong quan phủ cũng phải dè chừng đôi phần chứ, không phải sao?
Sắc mặt Thẩm Liệm thay đổi:
"Ý của ngươi là......"
Nàng có phần không dám nói ra suy đoán trong lòng, nhưng nhìn góc mặt nghiêng nghiêng điềm tĩnh chẳng một gợn sóng của Cố Quyệt, ma xui quỷ khiến thế nào, nàng vẫn hỏi thành lời:
"Ý của ngươi là, Khê Châu... và cả các châu phủ khác, phần thuế thu thừa ra kia... toàn bộ đều rơi vào túi của đám sâu mọt rồi?"
Một giới quan trường như thế, còn xứng là quan trường vì nước vì dân nữa sao?
Cố Quyệt quay đầu nhìn nàng, ánh mắt thoáng hiện một tia thương hại, nhưng chớp mắt đã tan biến, chỉ còn lại vẻ bình thản:
"Ngươi hy vọng mình có thể làm một vị quan tốt, nhưng trên đời này rất nhiều chuyện đều là thân bất do kỷ, đều chỉ đầy rẫy bất công và chẳng thể cam lòng."
Nàng biết, người đang đứng trước mặt mình ôm một trái tim chân thành, nhưng trong giới quan trường vẩn đục này, Thẩm Liệm có thể giữ sơ tâm ấy đi được bao xa?
"Trước ngươi có lẽ cũng từng có rất nhiều người có lý tưởng như vậy, ví dụ như vị Huyện thái gia nơi này."
"Ông ta?" Thẩm Liệm không giấu được vẻ khinh thường. "Khê Châu mỗi năm thu thuế cao ngất như vậy, ông ta không gật đầu, đám người ở thành Thiên Thủy dám tác oai tác quái?"
Chẳng qua là một lũ quan lại bao che nhau mà thôi.
Cố Quyệt lại nói:
"Đừng xem thường người ta, chưa chắc sau này ngươi làm quan đã hơn được ông ta đâu. Biết gì không? Ông ta từng chém con cháu đồng tộc của một cựu đại thần nhị phẩm đã cáo lão về hưu đấy, cái gan này không phải ai cũng có được đâu. Nhưng kết cục thì sao?"
"À...... chính là bị đày ra vùng đất khô cằn Thường Châu suốt mười mấy năm, cuối cùng còn phải nhờ cậy bên nhà thê tử bán hết gia sản mới đổi được lệnh điều chuyển."
Thẩm Liệm "à" một tiếng.
Cố Quyệt tiếp lời:
"Sau khi được triệu hồi, ông ta lăn lộn ở Khánh Châu không biết bao nhiêu năm, ngồi không biết bao nhiêu cái ghế lạnh, cuối cùng cũng thông được đường làm quan, học cách đút lót thượng cấp, vậy nên mới được phái đến thành Thiên Thủy làm quan phụ mẫu."
"Nhưng thế thì cũng không phải cái cớ để ông ta tham ô!" Thẩm Liệm tức giận. "Ngươi có biết ba trăm bốn mươi tiền có nghĩa là gì không?? Nó đủ cho một gia đình năm người......"
Chưa nói hết câu, Cố Quyệt đã ngắt lời:
"Vậy thì sao? Bách tính có khổ có nghèo cũng liên quan gì đến việc làm quan của ông ta? Không thu thêm thuế, thì lấy gì trả nợ tình nghĩa, lấy gì đi đút lót, lấy gì đi lấy lòng thượng cấp?"
"Chẳng lẽ làm quan là để lấy lòng thượng cấp sao?!"
Cố Quyệt nghe lời hỏi vặn lại của nàng cũng không tức giận, ngược lại còn vỗ tay cười:
"Hỏi hay lắm. Chỉ là chẳng biết năm đó ông ta có từng chất vấn như ngươi thế này không, cũng chẳng biết trong mười mấy năm bị đày ở nơi đất cằn đá sỏi kia, ông ta có từng hối hận không...... Thẩm Liệm à Thẩm Liệm, ngươi biết không, đôi khi con người quá mức ngây thơ lại thành một dạng tàn nhẫn với người khác. Ngươi tưởng ngươi chỉ cần một lòng dũng cảm đơn độc là có thể xông pha tất cả sao? Vương pháp vương pháp, vương pháp rốt cuộc là pháp của ai? Là của nhà ngươi hay của vương gia? Là của quyền quý hay của hàn môn?
"Ngươi bất mãn thì sao? Căm phẫn thì làm được gì? Cả quan trường này đều như vậy, chẳng lẽ ngươi còn định giữ mỗi cái thân mình, lại còn vọng tưởng thay đổi được gì sao? Mọi người xung quanh ngươi đều đang ngủ, chỉ một mình ngươi tỉnh táo. Vậy ngươi nói ta nghe, giữa đêm bừng tỉnh khỏi mộng, cái địa ngục mà ngươi nhìn thấy, rốt cuộc là ngươi đang mơ, hay bọn họ đang mơ?"
Nói xong, nàng đưa tay nhẹ nhàng vỗ vai Thẩm Liệm, hỏi lại:
"Ngươi còn muốn thi đỗ công danh, còn muốn làm quan không?"
Thẩm Liệm bị hỏi bất ngờ, nhất thời nghẹn lại, nói không ra lời.
Mà Cố Quyệt cũng không ép hỏi nữa. Đúng lúc đó, Mộng Hạ cũng đi tới bẩm báo:
"Thưa tiểu thư, bên phòng giữ xác đã thu xếp ổn thỏa."
Cố Quyệt gật đầu, quay sang nói với Thẩm Liệm vẫn còn thất thần:
"Đi thôi, tới phòng giữ xác xem thi thể kia có phải A Quế tẩu hay không."
Dứt lời, nàng cất bước rời đi, nhưng Thẩm Liệm phía sau lại đột nhiên lấy lại tinh thần, mở miệng đáp:
"Ta muốn—"
Cố Quyệt dừng chân, quay đầu nhìn bóng dáng đơn bạc của Thẩm Liệm đang được ánh hoàng hôn kéo dài, ngũ quan của người kia nhòe đi trong mắt nàng, như chồng lên gương mặt thiếu nữ năm xưa trong ký ức.
Nàng nghe thấy Thẩm Liệm đáp:
"Ta vẫn muốn thi đỗ công danh, vẫn muốn làm quan. Nếu thế đạo đã như vậy, cuối cùng rồi vẫn như vậy... thì tại sao ta không thử liều một lần?"
Nói rồi Thẩm Liệm ngẩng đầu lên, cặp mắt ấy vĩnh viễn sáng rực, rạng rỡ đầy tinh thần. Nàng quật cường hỏi:
"Chẳng lẽ thế đạo bất công, quan trường vô tình, thì ta phải cam lòng chìm đắm, phải biết khó mà lui, phải cùng dòng mà dơ bẩn theo sao? Rồi lấy cái cớ tốt đẹp đó, cứ thế dễ dàng phản bội lý tưởng trong lòng mình sao?"
Thẩm Liệm: "Đó không phải điều ta muốn."
"Ta không muốn như thế."
Đây có lẽ là lần đầu tiên kể từ khi quen biết Thẩm Liệm, Cố Quyệt nhìn thấy trong mắt đối phương ánh lên một tia ngoan cường, có đôi phần giống với chính mình trong gương của rất nhiều năm về trước.
Khiến nàng thoáng thấy hoài niệm.
"Nhưng ngươi có thể làm được gì chứ?" Cố Quyệt thở dài một tiếng, dường như không chỉ hỏi Thẩm Liệm mà cũng là hỏi bản thân mình.
"Ngươi chỉ là một hạt bụi nhỏ bé tầm thường... giữa dòng chảy của lịch sử mà thôi."
[Hết chương 27]