Niệm Chi

Chương 7



“Ngươi tưởng rằng, chỉ cần có sức lực và giỏi làm ruộng, là không cần ai vẫn có thể nuôi Niệm Chi ăn học?”

 

Bà ta đưa lưỡi d.a.o găm kề sát cổ tay Phùng Chiếu Thu:

 

“Nếu đôi tay này tàn phế, để ta xem ngươi còn cứng rắn nổi nữa không?”

 

Phùng Chiếu Thu nghiến răng:

 

“Dù bà có g.i.ế.c ta, cũng đừng hòng mang Niệm Chi đi!”

 

Nhìn mũi d.a.o đã cắt vào da thịt, hình bóng Phùng Chiếu Thu trong ký ức ta chợt ùa về — Bà có thể vác cả trăm cân gạo, cũng có thể vung d.a.o g.i.ế.c gia súc; bà đứng vững vàng giữa cõi đời này, mặc cho gió táp mưa sa vẫn hiên ngang bất động…

 

Nhưng suy cho cùng, bà vẫn chỉ là một thân xác phàm tục.

 

Bà sẽ bị thương, thậm chí… sẽ chết.

 

Ta cúi đầu, chịu thua.

 

“Ta theo bà về! Bà tha cho mẫu thân đi! Ta cầu xin bà… ta cầu xin bà tha cho mẫu thân của ta…”

 

Đây là lần đầu tiên ta gọi nàng một tiếng “mẫu thân”.

 

Truyện được dịch và đăng tải bởi Diệp Gia Gia

Mẫu thân ta đảm đang, kiên cường, là mẫu thân tốt nhất dưới gầm trời này.

 

Cớ gì vì ta mà phải chịu nhục, chịu tổn hại?

 

Sự ra đời của ta chẳng liên quan gì đến sự yêu thương, ta chỉ là bằng chứng cho nỗi nhục nhã của bà.

 

Phùng Chiếu Thu đỏ hoe vành mắt:

 

“Niệm Chi đừng sợ, dù tay mẫu thân có phế, mẫu thân vẫn có cách nuôi con!”

 

“Ta nuôi ngươi mười sáu năm, ngươi đổi giọng cũng nhanh thật!” — Nghiêm phu nhân hừ lạnh, ném con d.a.o găm cho thị vệ — “Cho ả suốt đời chỉ có thể quỳ gối!”

 

Ta vội vàng nói:

 

“Ta đã đồng ý theo bà về, sao bà vẫn còn muốn hại mẫu thân ta? Bà không sợ ta hận bà thấu xương, quay lại trả đũa Lạc Nhu sao?”

 

Mục đích của bà đã đạt được, vốn chẳng cần làm tổn thương Phùng Chiếu Thu; dù Hầu phủ thế lớn, nhưng đạo lý “thêm một chuyện không bằng bớt một chuyện” vẫn còn đó.

 

Ta chỉ không hiểu vì sao bà lại giận đến mức này — rõ ràng là đã mất đi lý trí.

 

Bà bước tới, bóp chặt mặt ta, mắt như muốn nứt ra:

 

“Ngươi vì một mụ nông phụ… mà muốn hại muội muội của mình?”

 

Ta nhắm mắt, nước mắt rơi lã chã.

 

“Bà ấy là mẫu thân ta, mà ta… vốn không có muội muội.”

 

Bà nghiêng đầu, liếc sang thị vệ:

 

“Còn chờ gì nữa? Động thủ!”

 

Thị vệ nhận lệnh, ấn một tay Phùng Chiếu Thu xuống đất, giơ d.a.o chực chém.

 

Đúng vào khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, có tiếng quát:

 

“Dừng tay!”

 

Là giọng Khương Thụy — nàng đứng ở cổng sân, thở hổn hển.

 

Nghiêm phu nhân thấy nàng thì hừ lạnh:

 

“Ngươi là cái thá gì?”

 

Khương Thụy tránh sang một bên bước vào, phía sau còn có một người.

 

[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -

Người ấy tóc chỉ được búi qua loa bằng trâm tre, đạo bào còn vương vết rượu chưa khô.

 

Tề Kiến Chân tựa người vào khung cửa, khóe môi mang ý cười nhàn nhã, buông một câu lười biếng:

 

“Nghiêm phu nhân… uy phong lớn thật đấy.”

 

Nghiêm phu nhân đánh giá nàng một lúc, đến khi nhận ra thân phận thì khí thế cũng hụt đi ba phần.

 

“Quận chúa Hoa Lâm?”

 

Quận chúa Hoa Lâm là ái nữ của Anh vương, từ nhỏ đã được nuôi dưỡng dưới gối Thái hậu.

 

Thuở bé nàng thông minh lanh lợi, nổi danh thần đồng. Đến năm cập kê, món quà Anh vương tặng nàng trong lễ cập kê là một đề thi khoa cử. Nàng bế quan ba ngày, viết ra bài Phụng Thiên, lưu truyền ở khắp nơi, trở thành tấm gương của nữ nhi chốn kinh thành.

 

Sau khi xuất giá, nàng trị gia nghiêm cẩn, trên dưới đều hết lời khen ngợi; đến khi phu quân mất, nàng quyết chí thủ tiết, ẩn cư tĩnh tu, rồi dần dần vắng bóng trong mắt mọi người.

 

Ta từng nghĩ nàng xuất thân không nhỏ, nhưng không ngờ lại lớn đến mức này.

 

Anh vương và bệ hạ là huynh đệ ruột, Hoa Lâm quận chúa chẳng những được Thái hậu sủng ái, mà còn được Hoàng đế đặc biệt coi trọng, cho phép nàng dâng tấu bàn việc triều chính.

 

Họ “Tề” không phải quốc tính, nên ta vốn không đoán nàng là Hoa Lâm quận chúa. Nghĩ lại mới thấy, e rằng ba chữ Tề Kiến Chân, không có chữ nào là thật.

 

Có điều, Nghiêm phu nhân cũng chẳng phải hạng tầm thường — là con gái út được sủng ái nhất trong thế gia đại tộc, vốn quen hành sự ngang ngược.

 

Huống chi, phụ mẫu bà ta từng dạy: Nhân tình mỏng như tờ giấy, chuyện quyền quý vì dân ra mặt chỉ có trong tuồng hát, là trò khỉ diễn cho kẻ ngốc xem mà thôi.

 

Bà ta cũng tâm đắc với điều ấy, thường lấy đạo lý đó dạy Lạc Nhu.

 

Nghiêm phu nhân nhấc môi cười, không hành lễ, còn tỏ ra như chỗ quen biết mà hàn huyên:

 

“Nơi hẻo lánh này, sao quận chúa lại tới được vậy?”

 

“Ta tới đây không lạ, Nghiêm phu nhân tới đây mới là lạ.”

 

“Con gái ở nhà bướng bỉnh, nên ta tới dạy dỗ đôi chút.”

 

“Ta lại chẳng hay Nghiêm phu nhân ở chốn này còn có sản nghiệp và nuôi con gái nữa. Sao thế, Hầu phủ không đủ chỗ ở sao?”

 

Đến đây, Nghiêm phu nhân mới thoáng chột dạ.

 

“Quận chúa nói đùa rồi.”

 

“Đúng là nói đùa. Đã là chuyện nhà, Nghiêm phu nhân cứ tiếp tục xử trí đi.”

 

Khương Thụy nghe mà chẳng hiểu, vội kêu:

 

“Phu tử!”

 

“À, suýt quên.” — Tề Kiến Chân làm bộ làm tịch, chỉ vào Phùng Chiếu Thu — “Nhưng nếu c.h.ặ.t t.a.y nàng ấy, thì cái đầu trên cổ Nghiêm phu nhân e là giữ không xong đâu.”

 

Lời vừa dứt, ngay cả ta cũng lạnh sống lưng.

 

Chẳng lẽ thân phận của Phùng Chiếu Thu không hề đơn giản?

 

Mồ hôi lấm tấm trên trán Nghiêm phu nhân:

 

“Lời này là ý gì?”

 

Tề Kiến Chân mỉm cười:

 

“Theo luật triều ta, lập công đường riêng mà dùng hình với dân thuộc lương tịch là trọng tội, phải c.h.é.m đầu đó! Sao, mọi người không biết à? Nghiêm phu nhân, xem ra bà đọc sách cũng chẳng nhiều nhặn gì.”

 

Nghiêm phu nhân nghe xong, tức đến mức suýt nghẹn thở.

 

Người trong Hầu phủ liếc nhìn nhau, rồi buông tay, thả chúng ta ra. Ta nhào vào lòng Phùng Chiếu Thu, òa khóc không kìm được.

 

Hầu phủ không thể đè nổi phủ Anh vương, Nghiêm phu nhân đối đầu Tề Kiến Chân cũng chỉ có thua, nên không tự rước nhục nữa, hậm hực phủi tay bỏ đi.